Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo


LỊCH SINH HOẠT SẮP TỚI

  • Khóa Lễ Chủ Nhật Hàng Tuần vào lúc 12pm.
  • Sám Hối:
            - Vào ngày Tuesday, 8 Tháng 7 Năm 2025 Âm Lịch: Lúc: 7:30 pm

    Các Ngày Lễ, Sám Hối và Bát Quan Trai khác:
    Lễ Vía Đức Quan Âm: Vào ngày:   Sunday 13-07-2025 Âm Lịch: Lúc: 11:50am - 1:30pm
    An Cư Kiết Hạ và Khóa Tu Học 10 ngày từ 7/16 tới 7/26: Vào ngày:   Wednesday 16-07-2025 Âm Lịch:
    Bát Quan Trai: Vào ngày:   Saturday 19-07-2025 Âm Lịch: Lúc: 10:00am


     BÀI HỌC CHO TUẦN NÀY
    (Phật Học Phổ Thông Khóa thứ VI)

    BÀI THỨ 01: PHẦN DUYÊN KHỞI


    TRIẾT LÝ ĐẠO PHẬT
    hay là
    ĐẠI CƯƠNG KINH LĂNG NGHIÊM


    BÀI THỨ NHẤT

    A.   Duyên-khởi

    Người đến đô thành lạ, nếu chẳng có bản-đồ, thì không sao khỏi lầm đường lạc nẻo.   Người đi trong biển khơi diệu-vợi, sóng dồi gió dập, lênh-đênh giữa biển, nếu không có kim chỉ-nam, thì không dễ gì vượt qua mấy vạn trùng-dương, trở về xứ-sở.   Người đi đánh giặc, nếu không có binh-thơ đồ-trận, không hiểu chiến-thuật chiến-lược, thì không sao thắng được giặc, đem trở lại trật-tự an-ninh cho nước nhà, và giữ-gìn non sông cẩm-tú.   Kẻ làm thợ nếu chẳng có mực thước, thì không sao làm thành những món đồ có giá-trị. 

                Người tu-hành cũng thế, nếu không hiểu lối thẳng, khúc quanh, chỗ đèo ải gay-go, nơi hố hầm nguy-hiểm trong đường lối tu-hành, lớp-lang chứng đạo, thì không sao khỏi lạc vào nẻo tà, sa nơi ác-đạo. 

                Kinh Lăng-Nghiêm là một bộ kinh quý-báu vô cùng, chỉ đường lối tu-hành một cách rành-mạch, nào là giáo, lý, hạnh, quả đều rõ-ràng.  Người tu trải qua bao nhiêu địa-vị, trong khi tu gặp những điều nguy-hiểm ấy, thì trong kinh Lăng-Nghiêm Phật dạy hết sức rành-rõ. 

                Nói đến kinh Lăng-Nghiêm, hàng Phật-tử ai lại chẳng nghe tiếng là một bộ kinh Ðại-thừa, vừa hay nhứt, mà cũng vừa quý nhứt.   Người tu-hành hiểu được kinh Lăng-Nghiêm, chẳng khác nào người bộ-hành có bản-đồ, kẻ thủy-thủ có kim chỉ-nam, người thợ có giây mực, cây thước, kẻ chiến-sĩ có binh-thư đồ-trận. 

                Vì kinh Lăng-Nghiêm quý-giá như thế, nên thuở xưa các vị vua Ấn-độ cho là một quốc-bảo, giữ-gìn nghiêm-ngặt không cho truyền-bá ra ngoài.  Trong lúc ấy, bên Tàu, có Ngài Thiên-thai Trí-giả Ðại-sư, được nghe kinh Lăng-Nghiêm quý-báu như vậy, nên mỗi ngày hai lần sớm chiều xây mặt về phía Tây (Ấn-độ) quì lạy cầu-khẩn cho kinh Lăng-Nghiêm được sớm truyền-bá qua Tàu, để lợi-ích quần-sanh. 

                Cách 100 năm sau, có Ngài Bát-Thích-Mật-Ðế, người Ấn-độ, đã nhiều lần tìm cách đem kinh Lăng-Nghiêm đến truyền-bá tại Trung-hoa, nhưng không kết-quả, vì luật nước nghiêm-cấm, kiểm-soát rất chặt-chẽ. 

                Ðến lần cuối cùng, Ngài viết kinh trong miếng lụa mỏng, rồi cuốn lại, xẻ thịt bắp-vế nhét vào, băng lại làm như người có ghẻ, mới đem được ra khỏi nước.  Chúng ta cũng nên nhớ tưởng lại cái công “vị pháp vong xu” của Ngài Bát-Thích-Mật-Ðế.   Thử nghĩ: một cây cỏ cắt vào da còn đau; một mụt ghẻ con, còn biết nhức, huống chi xẻ một đường dài nơi bắp thịt, nhét cho được một cuốn lụa con, trải qua bao nhiêu ngày, từ Ấn-độ sang đến Trung-hoa.   Nếu không may bị tiết-lộ, thì phải tử-hình.   Như thế chúng ta đủ thấy sự quý-báu của kinh Lăng-Nghiêm là dường nào !   Tâm vì đạo quên mình của Bồ-tát Bát-Thích-Mật-Ðế đáng cho chúng ta trọn đời bái phục. 

                Khi Ngài Bát-Thích-Mật-Ðế đem kinh Lăng-Nghiêm này qua Tàu, đến đất Nam-thuyên, gặp quan Thừa-tướng tên Phòng-Dung, là bực bác-học uyên-thâm, lại có lòng mộ Phật, nên Ngài trình-bày với Thừa-tướng, về giá-trị của kinh Lăng-Nghiêm mà Ngài đã hy-sinh mang đến. 

                Quan Thừa-tướng Phòng-Dung nghe rồi hết sức mừng-rỡ, cho là đặng một vật báu chưa từng có.   Nhưng khi đem cuốn lụa ra thì, vì bị máu mủ bám vào lâu ngày, nên mất cả chữ nghĩa. 

                Một bà có công lớn trong việc này, là Phu-nhân của Thừa-tướng Phòng-Dung.  Bà đem cuốn lụa ấy nấu với một chất thuốc hóa-học, thì máu mủ đều theo nước mà tan đi, chỉ lưu lại các nét mực, nên còn thấy để phiên-dịch. 

                Quan Thừa-tướng thỉnh Ngài Bát-Thích-Mật-Ðế dịch chữ Phạn ra chữ Tàu.  Ngài Di-Già-Thích-Ca dịch từ-ngữ, còn quan Thừa-tướng nhuận-sắc.  Nên kinh Lăng-Nghiêm chẳng những nghĩa-lý rất hay, mà văn-chương cũng là tuyệt-diệu.   Từ xưa các học-giả không những trong đạo Phật, mà cả đạo Nho, các đại-gia văn-chương, một phen xem đến kinh Lăng-Nghiêm, đều kính phục và vô cùng khen ngợi cái nghĩa-lý cao-siêu, và văn-chương tuyệt-diệu của kinh. 


    B.   Chánh-đề. 

    I.   NGUYÊN-NHÂN PHẬT NÓI KINH LĂNG-NGHIÊM

                Theo lệ thường, mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy, là ngày mãn hạ, chư Tăng cùng nhau tự-tứ, để rửa sạch những hành-vi lỗi-lầm và những tư-tưởng không tốt, cho giới-thể được thanh-tịnh.   Vì trong ba tháng kiết-hạ an-cư, chư Tăng đều thúc-liễm thân tâm, trau-giồi giới-hạnh, tích công lũy đức, nên đến ngày mãn hạ, các hàng Phật-tử cư-sĩ đều đua nhau sắm đủ các món trai-diên, thỉnh chư Tăng đến cúng-dường, để gieo trồng cội phúc. 

                Hôm ấy, nhằm ngày húy-nhật của Tiên-Hoàng, nên vua Ba-Tư-Nặc sắm đủ các món trân-tu mỹ-vị rất linh-đình, rồi chính vua thân-hành đến rước Phật và chư Tăng về cúng-dường. 

                Cũng hôm ấy, các hàng trưởng-giả cư-sĩ đều sắm đủ thức cơm chay, cung thỉnh chư Tăng đến cúng-dường.   Phật bảo ngài Văn-Thù chia ban, để đi đến từng nhà thọ cúng. 

                Trong lúc ấy, ông A-Nan vì đã chịu người thỉnh riêng trước, nên trở về chẳng kịp để dự vào hàng chúng Tăng thọ cúng. 

                Ông mang bình-bát đi vào thành, oai-nghi tề-chỉnh, bộ điệu chậm-rãi, qua từng nhà một để khất-thực.   Với tâm bình-đẳng, ông muốn làm phước điền cho tất cả mọi người, không phân-biệt bực quý-phái hay hạng bình-dân.   Ông chỉ mong gặp những người chưa biết làm phước, hôm nay phát tâm cúng-dường, để họ được ương trồng hạt giống lành, đặng ngày sau hưởng quả. 

                Vì lòng từ-bi bình-đẳng không lựa chọn, nên ông tuần-tự trải qua các xóm làng.   Không may ông gặp nhà tín-nữ ngoại-đạo, tên Ma-đăng-già, dùng phép huyễn-thuật là thần-chú của Ta-tỳ-ca-la Tiên Phạm-thiên, bắt vào phòng, dùng đủ lời dịu ngọt, vuốt-ve, mơn-trớn, ép-uổng về tình-duyên !... 

                A-Nan bị nạn, hết sức buồn rầu, chắp tay niệm Phật hướng về đức Chí-Tôn cầu cấu !...   Phật biết A-Nan mắc nạn, nên khi thọ trai xong không kịp thuyết-pháp, liền trở về tinh-xá ngồi kiết-già, trên đảnh phóng hào-quang trăm báu, trong hào-quang ấy có hoa sen ngàn cánh, trên hoa sen có đức Hóa-Phật ngồi kiết-già, nói thần-chú Lăng-Nghiêm (mỗi buổi khuya các chùa đều tụng). 

                Phật bảo Ngài Văn-Thù đem thần-chú ấy đi đến chỗ nàng Ma-đăng-già, để phá trừ tà-chú, cứu nạn cho A-Nan. 


    II.   A-NAN CẦU PHẬT DẠY PHƯƠNG-PHÁP TU-HÀNH LẦN THỨ NHỨT 

                Khi ông A-Nan được thoát nạn, về đến chỗ Phật, cúi đầu kính lạy, buồn tủi, khóc than và bạch Phật rằng:

                -   “Bạch đức Thế-Tôn !  Con từ hồi nào đến giờ có lòng ỷ lại: Con là em Phật, được Phật thương yêu, chắc-chắn Phật sẽ ban cho con thần-thông trí-huệ, hay đạo quả Bồ-đề, nên chỉ lo học rộng nghe nhiều, chẳng cần tu niệm, không ngờ ai tu nấy chứng, mặc dù con là em của Phật, nếu không tu, thì cũng bị đọa như ai; học nhiều mà không tu, thì cũng chẳng có ích gì !   Cúi xin Phật rộng lòng từ-bi, chỉ dạy cho con phương-pháp nào mà mười-phương các đức Phật tu-hành đều được thành đạo chứng quả.” 


    III.   PHẦN LƯỢT GIẢI 

    1.   ÐỊNH DANH VÀ GIẢI NGHĨA TÊN KINH. 

                Khi đó Phật an-ủi A-nan và hứa sẽ chỉ dạy phương-pháp tu-hành để thành-đạo chứng-quả, là kinh Lăng-Nghiêm.   Kinh này đọc cho đủ là: 

    “Kinh Ðại Phật đảnh, Như-Lai mật nhơn, Tu chứng liễu-nghĩa, Chư Bồ-tát vạn-hạnh, Thủ-lăng-nghiêm”; 

    gọi tắt là “Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm” tức là kinh nói về Chơn-tâm. 

    a)   Vì kinh này rất quý-báu, đã ít có mà lại khó gặp, hàng Tiểu-thừa Thanh-văn và quyền-thừa Bồ-Tát không thể thấu suốt được, nên dụ như cái tướng “Vô-kiến-tánh” của Phật, vì tướng này rất quý-báu và khó thấy, hàng phàm-phu và Nhị-thừa không thể thấy được. 

    b)   Mười phương các đức Phật đều y theo kinh này làm nhơn-địa tu-hành mà được thành-đạo chứng-quả, nên gọi là “Như-Lai mật-nhơn”. 

    c)   Y theo kinh này mà tu và chứng thì lối tu chứng ấy mới được rốt ráo, nên gọi rằng “Tu chứng liễu-nghĩa”. 

    d)   Các vị Bồ-tát tu pháp lục-độ vạn-hạnh đều y theo kinh này, nên cũng gọi là “Bồ-tát vạn-hạnh”.                Tóm lại, “Thủ-Lăng-Nghiêm”, Tàu dịch là “Ðại-định kiên-cố”.   Nghĩa là, cái bản-thể chơn-tâm sẵn có của tất cả chúng-sanh và chư Phật, nó bao-la trùm khắp cả vũ-trụ, nên gọi là “Ðại”.   Tâm ấy thường tịch-tịnh không vọng-động nên gọi rằng “Ðịnh”.  Nó không bị thời-gian thay đổi, hay không-gian chuyển dời, thấu xưa suốt nay, bao giờ cũng vẫn thường như thế, ở nơi bực thánh không thêm, tại phàm cũng không bớt, như như bất-động, nên gọi rằng “Kiến-cố”. 

                Chữ “Kinh” theo nghĩa hẹp là đường chỉ xuôi, tức là đường canh trong tấm vải.   Tấm vải nhờ có đường canh xâu kết lại các chỉ ngang, mới thành một tấm vải.      Còn theo nghĩa rộng, chữ “Kinh” là xâu tóm các lời lẽ và nghĩa-lý của Thánh-hiền làm thành một quyển hay một bộ. 

                Trong đạo Phật hay ngoài đời đều có kinh-điển.  Song kinh Phật có thêm chữ “Khế” nên khác hơn kinh sách ở thế-gian.  Chữ “Khế” nghĩa là hợp: 

                            a)   Hợp căn-cơ trình-độ của chúng-sanh.

                            b)   Hợp chân-lý. 

                Chữ kinh có nghĩa “thường pháp”, là một chân-lý không thay đổi: quá-khứ Phật nói pháp như vậy, hiện-tại Phật cũng nói pháp như vậy và vị-lai Phật ra đời cũng nói pháp như vậy mà thôi, nên gọi là “thường-pháp”. 

                Nói một cách xác thật hơn: 

                “Kinh này chính là tâm của chúng ta”. 

                a)   Chúng ta sẵn có bản-thể chơn-tâm thanh-tịnh và như-như bất-động, thế là nơi ta có “Thủ-Lăng-Nghiêm”.

                b)   Y theo chân-tâm này, mà khởi tu lục-độ muôn hạnh của Bồ-tát, thì chính là nơi ta có “Chư Bồ-tát vạn-hạnh”.

                c)   Y theo chơn-tâm mà tu, và cũng y theo chơn-tâm này mà chứng, tu chứng như thế mới rốt-ráo, nên gọi là “Tu chứng liễu-nghĩa”.

                d)   Chúng ta y chơn-tâm này làm nhân-địa tu-hành, sẽ được thành Phật, nên gọi là “Như-Lai mật-nhơn”.
               Chơn-tâm này rất quý-báu, những hàng phàm-phu, Tiểu-thừa và quyền-thừa Bồ-tát không ngộ nhập được, nên dụ như “Vô-kiến đảnh-tướng” của Phật.   Chơn-tâm chúng ta bao trùm cả vũ-trụ, muôn sự muôn vật không ngoài chơn-tâm ta, đó là nghĩa chữ “Kinh”. 

                Mười chín chữ đầu đề của kinh này: “Ðại Phật đảnh, Như-Lai mật-chơn, tu chứng liễu-nghĩa, chư Bồ-tát vạn-hạnh, Thủ-Lăng-Nghiêm”, đã bao-hàm toàn cả bộ kinh, nào là giáo, lý, hạnh, quả, thể-đại, tướng-đại và dụng-đại, nhơn-địa tu chứng đều trùm cả, mà rốt cuộc chỉ ở nơi tự tâm chúng ta sẵn đủ.   Bởi ngộ được lý này, nên đức Lục-Tổ Huệ-Năng nói rằng: 

                Không ngờ Tâm mình vốn sẵn thanh-tịnh

                Không ngờ Tâm mình vốn không sanh-diệt

                Không ngờ Tâm mình vốn đủ các pháp

                Không ngờ Tâm mình vốn không lay động

                Không ngờ Tâm mình hay sanh muôn pháp. 

                Ðọc đề-mục kinh có 19 chữ, chúng ta thấy đã vui thú rồi, vì chính nơi ta sẵn có kinh “Ðại Phật đảnh, Như-Lai mật-nhơn, tu chứng liễu-nghĩa, chư Bồ-tát vạn-hạnh, Thủ-Lăng-Nghiêm”.   Chỉ vì chúng ta mê-muội nên chẳng nhận được kinh Lăng-Nghiêm của mình.  Song nó cũng không mất, khi ngộ được thì sẽ thành Phật. 

    2.   NỘI-DUNG KINH LĂNG-NGHIÊM. 

                Nội-dung của kinh Lăng-Nghiêm là Phật chỉ dạy cho chúng ta ngộ được chơn-tâm.   Chúng ta vì không ngộ được chân-tâm nên phải vĩnh-kiếp làm chúng-sanh, trầm-luân trong biển sanh-tử, chịu không biết bao nhiêu khổ-sở.   Còn chư Phật thoát-ly sanh-tử luân-hồi, được tự-do giải-thoát, thần-thông tự-tại, trí-huệ vô-ngại v.v… đều do các Ngài đã ngộ chơn-tâm, nên mới được như thế. 

                Nói cho dễ hiểu: Phật với chúng-sanh vẫn đồng một thể-tánh chơn-tâm, nhưng các Ngài đã hoàn-toàn giác-ngộ được thể-tánh ấy, nên mới thành Phật.  Trái lại chúng-sanh vì mê-muội thể-tánh chơn-tâm, nên phải bị sanh-tử luân-hồi.   Nếu chúng ta giác-ngộ chơn-tâm, thì sẽ được như Phật. 

                Ông A-Nan cầu Phật chỉ dạy phương-pháp nào mà mưòi phương các đức Phật đã tu-hành và đều được chứng quả, thì Phật chỉ dạy, phải ngộ “chơn-tâm” mà thôi.  Nếu ngộ được chơn-tâm này thì thành Phật.  Ngộ được chơn-tâm, như người thức giấc mộng; không ngộ được chơn-tâm, như người còn ngủ chiêm-bao.   Ðây là phương-pháp duy-nhứt mà mười phương chư Phật tu-hành đã được thành-đạo chứng-quả.

    Đại Lễ Vu Lan Báo Hiếu - 2023
    Đại Lễ Vu Lan

    Thư Mời về dự Đại Lễ Vu Lan 2567, tại Tu Viện Kim Cang lúc 10:30 AM sáng chủ nhật ngày 27 tháng 8 năm 2023



    Xem chi tiết...

       TIN TỨC SINH HOẠT
    Đại Lễ Phật Đản - PL 2569 (DL 2025)

     Xem chi tiết 
      Chương Trình Tết Ất Tỵ 2025
      Đại Lễ Vu Lan Báo Hiếu - 2024
       PHẬT HỌC CĂN BẢN
    THOÁT ĐẾN THỰC TẾ

    Trong bài diễn văn đọc tại Oslo, khi được trao tặng giải thưởng cao quí về những hoạt động cho hòa bình, bậc vĩ nhân đầy lòng nhân đạo, Bác sĩ Albert Schweitzer nói:

    "Chúng ta phải ứng phó thực tế. Con người đã trở thành siêu nhân. Nhờ khoa học và các tiến bộ kỹ

     Xem chi tiết 
      ĐỨC PHẬT VÀ PHÁP GIÁO HOÁ CỦA NGÀI
      Khắc Phục Định Kiến Và Tập Khí Chỉ Lo Nghĩ Cho Bản Thân
       ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO
    ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO

    Trước tiên, chúng ta tìm hiểu ý nghĩa của từ đạo đức (Ethico) và các quan niệm tiêu biểu về đạo đức của các vùng văn hóa lớn của nhân loại.

    Tự điển Dagobert D.Runes (1970) định nghĩa: "Ðạo đức là môn học liên hệ đến các phán xét về điều kiện chấp nhận hay phủ nhận, đúng hay sai, tốt hay xấu, đức hạnh hay phi đức hạnh, dục vọng hay trí tuệ của các hành vi của con người".

     Xem chi tiết 
      Đạo Phật Và Chữ Hiếu
      Lễ Tháng Bảy Cho Những Oan Hồn Phiêu Bạt
       THIỀN HỌC PHẬT GIÁO
    SỰ SUY NIỆM CỦA NỘI TÂM

    Ngài U Jotika được sinh ra trong một gia đình không thuộc dòng dõi Phật giáo tại Myanmar, và ngài được theo học trong một ngôi trường dòng Thiên Chúa giáo của người La Mã. Ngài đã học ngành kỹ thuật điện tử và đã đọc rất nhiều sách thuộc về khoa học phương Tây, về triết học, và tâm lý học. Ngài đã kết hôn và là cha của 2 người con gái trước khi xuất gia là một tu sĩ. Thay vì thỉnh thoảng viếng thăm gia đình và ở lại Yangoon, thì ngài đã dành trọn thời gian của mình để sống ẩn dật.

     Xem chi tiết 
      Yếu Chỉ kinh Nhất Dạ Hiền
      Pháp Thể Nhập Tri Kiến Phật (Kinh Pháp Hoa)
       VĂN HÓA PHẬT GIÁO
    Hoài Niệm Hòa Thượng Trí Thủ

    Một buổi chiều xuân năm 1958, tôi lên núi Trại Thủy Nha Trang, thăm chùa Hải Đức. Tôi không vào chùa, tôi đi dạo chung quanh chùa nhìn tứ-vọng-cảnh, rồi ra sân xem những chậu hường, lấy giống từ Đà Lạt. Xa xa nơi bìa sân, một nhà sư áo nâu đứng lần chuỗi dưới gốc cây Bồ đề xanh tươi. Những hạt chuỗi đón ánh mặt trời như những vì sao óng ánh, nối nhau mọc rồi lặn, lặn rồi mọc, đều đặn ung dung.
    Hồi lâu nhà sư lặng lẽ đi ra sau chùa, lên Viện phật học cất trên hông đồi cao. Lòng tôi lâng lâng, và tôi có cảm giác rằng tôi là nhà sư. Đứng im một chỗ, nhưng tôi tưởng chúng tôi đương bước lên đầu non vừa đi vừa lần chuỗi. Cao hứng tôi sáng tác được một luật ngũ ngôn:

     Xem chi tiết 
      Lời Mẹ Nhắn Nhủ
      Lời Mẹ Ru
       PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
    Bát Nhã Tâm Kinh

    Phật Học Phổ Thông Khóa thứ XII

     Xem chi tiết 
      10 - Phần Chánh Tôn (Tiếp Theo)
      09 - Phần Chánh Tôn (Tiếp Theo)
       TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
    TỨ DIỆU ĐẾ

    Giáo lý Tứ đế là nền tảng của hệ thống giáo lý đạo Phật. Ngay sau khi Đức Phật thành đạo, Ngài đến vườn Nai thuyết pháp cho năm anh em Kiều Trần Như, những bạn tu khổ hạnh với Ngài trước đây; nội dung bài thuyết giáo đầu tiên ấy là Tứ diệu đế. Từ đó, xuyên suốt hành trình hoằng hóa của Ngài, giáo lý Tứ diệu đế được triển khai, mở rộng. Đức Phật nhiều lần xác định về tầm quan trọng và siêu việt của giáo lý Tứ đế, Ngài dạy: "Những bậc A La Hán chánh đẳng giác ở trong quá khứ, ở trong tương lai hay hiện tại, được coi là vị Chánh đẳng giác đúng nghĩa là Chánh đẳng giác về Bốn thánh đế" (T- Ưng V).

     Xem chi tiết 
      SỰ VĨ ĐẠI CỦA ĐỨC PHẬT
      NĂM UẨN

    Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
    Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
    4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712