BÀI THỨ
CHÍN
PHẦN CHÁNH
TÔN
(tiếp theo)
56.
PHẬT PHÁ CÁI CHẤP “NHƯ-LAI ÐẶNG ÐẠO QUẢ VÔ-THƯỢNG BỒ-ÐỀ”
Ông Tu-Bồ-Ðề
bạch Phật:
-
Bạch Thế-Tôn! Như-Lai có chứng đặng đạo quả Vô-thượng Bồ-đề không?
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Như-Lai không có một tí gì gọi là đặng đạo quả Vô-thượng Bồ-đề.
LƯỢC
GIẢI
Ðoạn này Phật dùng trí-huệ Kim-Cang Bát-Nhã phá trừ cái chấp “Phật có đặng Ðạo quả
Bồ-đề”. Ðây là lần thứ 4 (lần thứ nhứt, hai và ba ở đoạn 15, 36 và 46).
Trong Duy-Thức Tam-Thập tụng có chép: “Nếu hành-giả hiện tiền còn phần nào
thấy mình có chứng Duy-thức tánh, thì chưa phải thật chứng Duy-thức tánh, vì còn
chấp “có sở đắc” vậy”.
Ðồng một ý với đoạn kinh này, nếu còn chấp “mình đặng đạo vô-thượng Bồ-đề”, tức
là còn bốn tướng: ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả thì không phải thật chứng đạo
vô-thượng Bồ-đề.
Hành-giả phải ngộ nhập Kim-Cang Bát-Nhã, xa lìa các vọng chấp, không còn thấy mình
chứng (không ngã) và đạo quả Bồ-đề để chứng (không pháp) thì mới thật là chứng đạo
vô-thượng Bồ-đề. Bởi thế nên Phật dạy: “Như-Lai không có một tí gì gọi
là đặng đạo vô-thượng Bồ-đề”.
57.
PHÁP NÀY BÌNH ÐẲNG KHÔNG CÓ THẤP CAO
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Pháp này bình-đẳng không có cao thấp, không ngã, không nhơn, không
chúng-sanh và không thọ-giả, tạm gọi là đạo vô-thượng Bồ-đề.
-
Tu-Bồ-Ðề! Do tu tất cả các pháp lành mà đặng đạo vô-thượng Bồ-đề, Như-Lai
nói pháp lành, không phải pháp lành, mới gọi là pháp lành.
LƯỢC
GIẢI
Ðoạn này Phật nói “pháp này bình-đẳng, không có cao thấp”, và phá cái chấp “pháp
lành”.
Hành-giả còn chấp “ta tu pháp lành” tức là còn chấp ngã (ta tu), chấp pháp (pháp
lành). Nếu đem tâm chấp ngã chấp pháp mà tu pháp lành, thì pháp lành ấy thuộc
về hữu-vi hữu-lậu, không phải là pháp lành cứu-cánh.
Hành-giả phải dùng trí-huệ Kim-Cang Bát-Nhã, phá trừ các chấp ngã chấp pháp mà tu
các pháp lành, thì các pháp lành ấy mới hợp với Bát-Nhã chơn-không, thuộc về vô
lậu thanh-tịnh, mới phải là pháp lành rốt-ráo. Bởi thế nên Phật dạy:
“Như-Lai nói các pháp lành, không phải pháp lành, mới gọi là pháp lành”.
Hành-giả nhập Kim-Cang Bát-Nhã, phá trừ các vọng chấp mà tu các pháp lành thì sẽ
chứng được đạo vô thượng Bồ-đề. Ðạo nầy không ngã, không nhơn, không chúng-sanh,
không thọ-giả, nên Phật nói: “Pháp này bình-đẳng, không có cao thấp”.
Cổ-nhơn có làm một bài tụng, nói về cảnh giới khi ngã và pháp đã hết, như sau:
Nguyên văn (dịch âm):
Võ tiền chỉ kiến hoa gian điệp
Võ hậu toàn vô điệp để hoa
Hoa điệp phân thân quá tường khứ
Bất tri xuân sắc lạc thì gia.
Dịch nghĩa:
Trước mưa chỉ thấy hoa cùng bướm
Mưa rồi chẳng thấy bướm với hoa
Hoa rụng bướm bay qua khỏi vách
Vậy ai đã hưởng thú xuân này.
ÐẠI
Ý BÀI TỤNG
Trước khi chưa dùng trí-huệ Bát-Nhã (chưa mưa) để phá trừ vô-minh vọng-chấp, thì
ngã (bướm) và pháp (hoa) còn lăn-xăn trước mắt.
Sau khi dùng tri-huệ Bát-Nhã phá trừ hết vô-minh vọng-chấp (mưa rồi) thì ngã và
pháp đều hết (hoa rụng, bướm bay). Lúc bấy giờ chơn-tâm thanh-tịnh hay Phật
tánh hiện ra. Vậy ai là người hưởng được cảnh-giới này.
58.
PHẬT NÓI CÔNG-ÐỨC CỦA NGƯỜI THỌ TRÌ KINH NÀY KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Nếu có người đem 7 món báu, chất cao bằng các núi Tu-Di trong đại
thế-giới (một nghìn triệu thế-giới nhỏ) để bố-thí, thì người này phước-đức nhiều
lắm.
-
Nhưng, nếu có người thọ-trì đọc tụng, hoặc giảng dạy kinh Kim-Cang Bát-Nhã Ba-la-mật
này, hoặc trọn quyển, hay nửa quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì người
này phước-đức hơn người trước nhiều lắm. Phước-đức của người trước không bằng
một phần trăm, một phần ngàn, một phần muôn, một phần ức của người này, cho đến
dùng toán số không thể tính được, hay dùng thí-dụ cũng không thể thí-dụ được phước-đức
của người này.
LƯỢC
GIẢI
Ðây là lần thứ 13, Phật tán-thán công-đức không thể nghĩ bàn của người thọ trì và
truyền bá kinh này.
Bố-thí 7 báu tuy quý, nhưng chỉ giúp cho người về vật chất, giàu có sung-sướng trong
một đời mà thôi. Phước-đức tuy nhiều, nhưng thuộc về hữu-vi hữu-lậu.
Người thọ-trì hay giảng dạy kinh Kim-Cang Bát-Nhã, sẽ được lợi-ích về phần tinh-thần,
mình và người đều sẽ tỏ ngộ lý Bát-Nhã và sẽ thành Phật, rồi tự độ và độ tha, lợi-ích
muôn đời, nên mặc dù thọ-trì rất ít, nhưng phước-đức vẫn nhiều hơn người trước.
Phước này thuộc về vô-lậu thanh-tịnh, nên không thể tính lường hay thí dụ được.
59.
PHẬT PHÁ CÁI CHẤP “NHƯ-LAI CÓ ÐỘ CHÚNG-SANH”
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Ông chớ lầm tưởng: Như-Lai nghĩ rằng: “Ta độ chúng-sanh”.
Tại sao vậy? Nếu Như-Lai có nghĩ: “Ta độ chúng-sanh”, thì Như-Lai còn
chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả, tức nhiên không phải Như-Lai.
Bởi thế nên, Như-Lai thật không có độ chúng-sanh nào cả.
-
Tu-Bồ-Ðề! Như-Lai nói “ta”, thật ra không có “ta”; nhưng chúng phàm-phu lại
chấp có ta. Tu-Bồ-Ðề! Như-Lai nói phàm-phu, không phải phàm-phu, chỉ
giả gọi là phàm-phu.
LƯỢC
GIẢI
Ðoạn này Phật dùng trí-huệ Bát-Nhã phá cái chấp “Phật có độ chúng-sanh”.
Nếu còn thấy “ta độ sanh”, tức là còn vọng chấp ngã (ta), nhơn (chúng-sanh) thì
không nhập được Kim-Cang Bát-Nhã, nên không phải là Phật.
Vì Như-Lai đã nhập Kim-Cang Bát-Nhã, không còn các vọng chấp ngã, nhơn, v.v… nên
Như-Lai không thấy “thật có độ sanh”.
Vì phá trừ nghi vấn: Phật đã không chấp bốn tướng, tại sao còn nói “ta”? nên
Phật dạy tiếp: “Như-Lai nói “ta”, nhưng thật ra không có cái “ta”, do chúng
phàm-phu vọng chấp là ta”.
Nói đến phàm-phu, sợ chúng-sanh chấp “thật có phàm-phu”, nên Phật liền phá: “Như-Lai
nói phàm-phu, không phải thật phàm-phu, chỉ giả gọi là phàm-phu”.
60.
THẤY 32 TƯỚNG TỐT CỦA PHẬT CHƯA PHẢI LÀ THẤY ÐƯỢC PHẬT
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Ông có thể cho thấy 32 tướng tốt của ta đây, là thấy được Phật không?
Tu-Bồ-Ðề thưa:
-
Bạch Thế-Tôn! Ðúng như vậy, thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy được Phật.
Phật day:
-
Ông hiểu lầm rồi! Nếu thấy 32 tướng tốt của ta đây, mà cho là thấy được Phật,
thì vua Chuyển-Luân Thánh-Vương cũng có đủ 32 tướng tốt như ta, vậy vua Chuyển-Luân
Thánh-Vương cũng là Phật hay sao?
Tu-Bồ-Ðề thưa:
-
Bạch Thế-Tôn! Con hiểu ý Phật rồi, không thể thấy 32 tướng tốt của Phật là
thấy được Phật.
LƯỢC
GIẢI
Ðoạn này Phật dùng trí-huệ Bát-Nhã phá cái chấp: “thấy sắc thân của Phật là
thấy được Phật”. Ðây là lần thứ 4 (lần thứ 1, 2, 3 ở đoạn 7, 25, 53) nói về
việc thấy Phật.
Muốn rõ thêm đoạn này, tôi xin nhắc lại một lần nữa.
Thuở xưa, có hai vị Tỳ-kheo, từ phương xa đến yết-kiến Phật. Ði nửa đường,
một vị vì sợ phạm giới, không uống nước có sinh-trùng, nên bị khát chết. Một
vị kia nhờ uống nước được sống, đến yết-kiến Phật.
Phật quở: “Ông Tỳ-kheo kia giữ giới, không uống nước, tuy chết, nhưng ông
đã thấy ta trước rồi. Còn ông không giữ giới, tuy sống, đến yết-kiến ta, nhưng
ông lại cách ta ngàn dặm!”
Vậy thì, thấy Phật là thấy cái gi? Không thể cho thấy sắc thân có 32 tướng
tốt của Phật, mà cho là thấy được Phật. Bởi thế nên Phật nói: “Nếu cho
thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy được Phật, thì vua Chuyển-Luân Thánh-vương cũng
có đủ 32 tướng tốt như Phật, vậy thì vua Chuyển-Luân Thánh-Vương cũng là Phật hay
sao?”
Tóm lại, theo tinh-thần Bát-Nhã, phải xa lìa tất cả các vô-minh vọng-chấp, thì chơn-tâm
hay Phật-tánh mới hiện. Ðó mới thật là thấy Phật.
Ngộ được nghĩa-lý uyên-thâm của đoạn này, nên Cổ-nhơn có làm bài tụng như sau:
Nguyên văn (dịch âm):
Phật tức tâm hề tâm tức Phật
Tâm Phật tùng lai giai vọng vật
Nhược tri vô Phật phục vô tâm
Thỉ thị chơn-như pháp-thân Phật.
Dịch nghĩa:
Phật tức là tâm, tâm tức Phật
Tâm Phật cả hai đều vọng vật
Người ngộ vô tâm và vô Phật
Liền chứng Chơn-như Pháp-thân Phật.
ÐẠI
Ý BÀI TỤNG
Phật tức tâm, tâm tức Phật. Tâm và Phật chỉ là hai danh-từ để gọi mà thôi,
chớ không có cái gì chơn-thật. Nếu người diệt trừ các vô-minh vọng chấp, ngộ
được lý Phật và tâm đều không, thì người ấy sẽ chứng đặng chơn-như hay Pháp-thân
Phật.
61.
PHẬT NÓI BÀI KỆ, PHÁ CÁI CHẤP “THẤY PHẬT BẰNG SẮC TƯỚNG, NGHE PHẬT BẰNG ÂM THANH”
Khi đó, đức
Thế-Tôn nói tiếp bài kệ rằng:
Nếu thấy ta bằng sắc tướng
Nghe ta bằng âm thanh
Người này đi đường tà
Không thấy được Như-Lai.
LƯỢC
GIẢI
Bài kệ này tóm lại đoạn trên, Phật dùng trí-huệ Bát-Nhã phá cái chấp “thấy Phật
qua sắc tướng của Phật” và “nghe Phật qua âm-thanh của Phật”.
Ðoạn trên đã giải, nếu chấp sắc-thân có 32 tướng tốt của Phật là Phật, thì vua Chuyển-Luân
Thánh-Vương cũng có đủ 32 tướng tốt như Phật, vậy vua Chuyển-Luân Thánh-Vương cũng
là Phật hay sao?
Nếu chấp tiếng nói thanh-thao vi-diệu của Phật là tiếng Phật, thì tiếng chim Ca-Lăng-Tần-Già,
cũng thanh-thao vi-diệu như tiếng Phật, vậy tiếng chim Ca-Lăng-Tần-Già cũng là tiếng
Phật hay sao?
Tóm lại, phải phá trừ các vô-minh vọng chấp, nhập Kim-Cang Bát-Nhã, mới thật thấy
và nghe được Phật. Trái lại, nếu còn vô-minh vọng chấp, chấp sắc tướng hay
âm thanh của Phật, không nhập được Kim-Cang Bát-Nhã, thì không bao giờ thấy được
Phật. Bởi thế nên Phật quở: “Người này đi đường tà (vọng), không bao
giờ thấy được Như-Lai”.
62.
PHẬT PHÁ CÁI CHẤP “KHÔNG” (TỨC LÀ CHẤP ÐOẠN-DIỆT)
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Ông chớ nên nghĩ rằng: Như-Lai không thừa-nhận thân tướng
tốt đẹp này là thân Phật. Tại sao vậy? Nếu người phát tâm Bồ-đề mà nghĩ
như vậy, thì mắc về cái chấp “đoạn diệt”. Tu-Bồ-Ðề! Người phát tâm Bồ-đề
đối với các pháp, không nên chấp “đoạn diệt” (chấp không).
LƯỢC
GIẢI
Ðoạn này Phật dùng trí-huệ Bát-Nhã phá cái chấp “sắc thân đủ 32 tướng tốt của Phật,
không phải là Phật”.
Ðúng theo tinh-thần kinh Bát-Nhã, thì phá hết các chấp: ngã, pháp, hữu, vô v.v…
lúc bấy giờ chơn-tâm, Phật tánh hay Bát-Nhã v.v… mới hiện.
Bởi thế nên “chấp sắc thân đầy đủ tướng tốt của Phật là Phật” đã bị Phật quở là
“lạc vào đường tà, không thấy được Phật”; mà “chấp sắc thân đầy đủ tướng tốt của
Phật, không phải là Phật”, cũng bị Phật quở là “chấp đoạn diệt”; nghĩa là “chấp
không”, thuộc về “đoạn kiến ngoại đạo”.
Chấp “có” (chấp thường), chấp “không” (chấp đoạn) cũng đều là vọng-chấp cả, không
thể chứng đặng Ðạo Bồ-đề. Bởi thế nên Phật dạy: “Người phát tâm Bồ-đề,
đối với các pháp, không nên chấp đoạn diệt”.
Kinh chép:
Nhược nhơn dục thức Phật cảnh giới
Ðương tịnh kỳ ý như hư-không.
Dịch nghĩa:
Nếu người muốn biết cảnh-giới Phật
Tâm phải thanh-tịnh như hư-không.
ÐẠI
Ý
Người muốn nhập cảnh-giới Phật hay chứng Ðạo Bồ-đề, thì phải xa lìa các vọng chấp;
có, không, đoạn, thường v.v… giữ tâm ý thanh-tịnh như hư-không.
63.
NGƯỜI NGỘ “TẤT CẢ CÁC PHÁP KHÔNG THẬT”, PHƯỚC-ÐỨC NHIỀU HƠN NGƯỜI BỐ-THÍ VÔ SỐ BẢY
SÁU
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Nếu có vị Bồ-tát dùng 7 món báu, đựng đầy trong hằng sa thế-giới,
đem bố-thí; và có vị Bồ-tát ngộ “tất cả pháp không thật” (nhứt thế pháp vô ngã)
và chứng đặng “pháp không” (pháp nhẫn) thì công-đức của vị Bồ-tát sau này, nhiều
hơn vị Bồ-tát trước. Tại sao vậy? Vì vị Bồ-tát sau này không lãnh thọ
phước đức.
Tu-Bồ-Ðề bạch
Phật:
-
Bạch Thế-Tôn! Tại sao Bồ-tát không lãnh thọ phước đức?
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Bồ-tát làm các việc phước-đức, nhưng không tham trước, nên nói Bồ-tát
không lãnh thọ phước-đức.
LƯỢC
GIẢI
Ðoạn này nói Bồ-tát nhập Kim-Cang Bát-Nhã, chứng được “các pháp vô ngã” (vô sanh
pháp nhẫn) nên làm các việc phước đức, mà không tham trước, không mong cầu về mình,
không chấp tướng phước đức, nên phước đức nhiều hơn vị Bồ-tát bố-thí 7 món báu đựng
đầy trong hằng sa thế-giới.
Người đem tâm vọng chấp ngã, pháp của phàm-phu, mà làm các việc phước đức, dù phước
đức ấy nhiều đến đâu, cũng thuộc về hữu-vi hữu-lậu của thế-gian phàm-phu mà thôi.
Trái lại, nếu người đem tâm thanh-tịnh, không chấp ngã, chấp pháp, họp với tánh
Bát-Nhã chơn-không, mà làm các việc phước đức, không tham cầu phước đức riêng về
phần mình, thì người này mặc dù làm rất ít, mà phước đức nhiều vô tận; vì phước
đức này thuộc về vô-lậu thanh-tịnh.
Giải-thích đoạn này, Ngài Trí-giả Ðại-sư làm bài tụng:
Nguyên văn (dịch âm):
Tam thiên đại thế-giới
Thất bảo mãn kỳ trung
Hữu nhơn trì bố-thí
Ðắc phước giả như phong
Du thắng xan tham giả
Vị đắc đạt chơn tông
Chung tu tứ cú kệ
Tri giác chứng toàn không.
Dịch nghĩa:
Cả đại-thiên thế-giới
Ðựng đầy bảy món báu
Bố-thí để cầu phước
Ðặng phước cũng như gió
Còn hơn người bỏn xẻn
Chưa hiểu nghĩa chơn thật
Trì tụng bốn câu kệ
Mới ngộ được lý không.
ÐẠI
Ý BÀI TỤNG
Người đem bảy báu đựng đầy một nghìn triệu thế-giới nhỏ, để bố-thí, được phước đức
tuy nhiều, nhưng không lâu dài, như gió thổi qua; không bằng người tỏ ngộ lý chơn-không
của kinh Bát-Nhã, sẽ đặng phước vô lậu thanh-tịnh.
GIẢI
DANH TỪ
PHÁP KHÔNG hay
PHÁP NHẪN: Bản-thể chơn-như thanh-tịnh; nhưng vì mây ngã pháp che
mờ. Hành-giả tu hành phá trừ được ngã chấp (ngã không) thì một phần chơn-như
hiện ra, nên gọi là “ngã không chơn-như”; phá trừ được pháp-chấp (pháp không) thì
một phần nửa chơn-như hiện ra, nên gọi là “pháp không chơn-như”.
Chứng được lý ngã không (sanh không) và pháp không, thì gọi là “nhị không chơn-như”
tức là đặng “vô sanh pháp nhẫn”. (chứng đặng ngã, pháp đều không).