BÀI THỨ SÁU
CHÁNH VĂN
Hỏi: Nếu chỉ có nội thức, không có ngoại cảnh làm duyên, thì nội thức
làm sao sanh ra các món phân-biệt?
Ðáp: NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN
TỤNG VIẾT:
Do nhứt thế chủng thức
Như thị như thị biến
Dĩ triển chuyển lực cố
Bỉ bỉ phân-biệt sanh.
DỊCH NGHĨA
Luận-chủ
nói bài tụng để trả lời rằng: Do các chủng-tử trong Tạng-thức, trùng trùng
biến ra các pháp. Vì sức phát-triển sanh-khởi của các pháp, nên sanh ra các
món phân-biệt.
LƯỢC GIẢI
Hỏi: Luận-chủ
trả lời: Do thức A-lại-da chứa đựng chủng-tử của các pháp, các chủng-tử ấy
lại sanh ra các pháp hiện-hành, rồi mỗi pháp hiện-hành lại sanh Kiến-phần (năng
phân-biệt) và Tướng-phần (bị phân-biệt).
Câu “Như
thị như thị biến”; nghĩa là từ khi sanh cho đến khi chín, sự biến đổi
phát-triển rất nhiều.
Cấu “Triển
chuyển lực cố”; nghĩa là tám thức hiện-hành và các tâm-sở tương-ưng,
nào Tướng-phần, nào Kiến-phần v.v… đều có cái năng-lực bổ trợ cho nhau, nên sanh
ra các cảnh-giới thế-gian (bị phân-biệt) và các món phân-biệt (năng phân-biệt).
CHÁNH VĂN
Hỏi:
Nếu chỉ có nội thức, không có ngoại cảnh để làm trợ duyên, thì tại sao
lại có chúng hữu-tình sanh tử tương-tục?
Ðáp: NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN
TỤNG VIẾT:
Do chư nghiệp tập-khí
Nhị thủ tập-khí câu
Tiền Dị-thục ký tận
Phục sanh dư Dị-thục.
DỊCH NGHĨA
Luận-chủ nói bài tụng để trả lời
rằng: Do tập-khí (chủng-tử) của các nghiệp và tập-khí (chủng-tử) của hai thủ
(năng-thủ, sở-thủ) chung nhau làm duyên, nên thân dị-thục (báo-thân) đời nay vừa
hết, thì lại tiếp-tục sanh ra các thân dị-thục sau và đời sau nữa.
LƯỢC GIẢI
Hỏi: Nếu
chỉ có nội thức, không có ngoại cảnh làm duyên, thì tại sao hiện nay thấy có các
chủng hữu-tình sanh-tử tiếp nối luôn luôn?
Ðáp: Do có các nghiệp làm duyên, nên chúng hữu-tình sanh-tử tương-tục.
Chữ “chư
nghiệp”, nghĩa là nghiệp lành, nghiệp dữ và nghiệp bất-động (tu thiền-định).
Chữ “nhị
thủ”: Kiến-phần (năng-thủ), Tướng-phần (sở-thủ) hoặc Danh (tâm) và Sắc
(vật) hay Tâm-vương và Tâm-sở.
Chữ “tập
khí”, tức là biệt-danh của chủng-tử. Như người viết chữ: khi chưa
viết thì cái công-năng tập quen (tập khí) đó, nó tiềm-tàng núp ẩn trong tay, người
không thấy được. Ðến khi viết chữ, là do cái công-năng tập-luyện (khí phần)
ngày trước đó, nên nay mới viết được. Bởi thế nên “chủng-tử” (công-năng tiềm-tàng)
cũng gọi là “tập-khí”.
Báo-thân của loài hữu-tình, gọi
là thân Dị-thục. Khi thân Dị-thục hiện-tiền sắp diệt, thì chủng-tử của các
nghiệp làm sơ-duyên và chủng-tử của hai món thủ làm thân-duyên, tương-tục không
dứt, nên làm cho sanh ra thân Dị-thục đời sau. Bởi thế nên các chúng hữu-tình,
khi sắc-thân này chết đi, thì lại sanh ra sắc-thân khác. Do đó mà sanh-tử
nối luôn, không biết chừng nào cùng tận.
Tập-khí (chủng tử)
1. Chủng-tử các nghiệp
làm sơ-duyên.
a. Nghiệp lành.
b. Nghiệp dữ.
c. Nghiệp bất-động.
2. Chủng-tử hai thủ
làm thân-duyên.
a. Tướng và Kiến.
b. Danh và Sắc.
c. Tâm và Tâm-sở.
CHÁNH VĂN
Hỏi: Nếu
chỉ có thức mà thôi, tại sao rất nhiều chỗ trong kinh Phật nói có ba tánh?
Ðáp: Phải biết ba tánh đó cũng chẳng ngoài thức.
Hỏi: Tại
sao vậy?
Ðáp: NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN
TỤNG VIẾT:
Do bỉ bỉ biến-kế
Biến-kế chủng chủng vật
Thử biến-kế-sở-chấp
Tự tánh vô sở hữu
Y-tha-khởi tự-tánh
Phân biệt duyên sở sanh
Viên-thành-thật ư bỉ
Thường viễn ly tiền tánh
Cố thử dữ y-tha
Phi dị phi bất dị
Như vô-thường đẳng tánh
Phi bất kiến thử bỉ.
DỊCH NGHĨA
Luận-chủ nói ba bài tụng để trả
lời rằng: Do tanh Biến-kế-sở-chấp, vọng-chấp tất cả các vật. Tánh Biến-kế-sở-chấp
này, không thật có tự-thể. Còn tánh Y-tha-khởi là do các duyên phân-biệt mà
sanh. Tánh Viên-thành-thật, là do trên tánh Y-tha-khởi xa-lìa tánh Biến-kế-sở-chấp,
mà hiện.
Bởi thế nên tánh “Viên-thành-thật”
đối với tánh “Y-tha-khởi” cũng khác mà cũng không khác, vì không thể tánh riêng
được. Bởi thế nên, nếu không thấy được tánh Viên-thành-thật, thì cũng không
thể thấy được tánh Y-tha-khởi. Cũng như tánh vô-thường v.v… đối với các pháp,
cũng khác mà cũng không khác.
LƯỢC GIẢI
Hỏi: Nếu chỉ có một thức
mà thôi, thì tại sao trong các kinh rất nhiều chỗ, đức Thế-Tôn nói có ba món tự-tánh:
1. Biến-kế-sở-chấp tự-tánh.
2. Y-tha-khởi tự-tánh.
3. Viên-thành-thật tự-tánh ?
Ðáp: Luận-chủ trả lời rằng: “Ba món tự-tánh Phật nói đó,
cũng không rời thức”. Song còn e người không tin, nên Luận-chủ nói tiếp 3
bài tụng để giải-thích nguyên-do.
- Tánh Biến-kế-sở-chấp
này là do chúng-sanh vọng-chấp ức-đạc mà có. Như bên Âu-châu có nhà học-giả
thấy bộ xương khỉ giống bộ xương người, nhơn đó họ nghi-ngờ và ức-đạc rằng: loài
khỉ tiến hóa thành loài người; rồi đề xướng lên cái thuyết “Ðộng-vật tiến-hóa” (Darwin).
Từ đó về sau họ mới chủ-trương rằng: “Tất cả vật trên thế-gian, đều do tiến-hóa
thành”. Bởi thế nên bài tụng nói: “Vọng-chấp tất cả vật”.
Vì vọng-tưởng ức-đạc, chớ chẳng phải thật có, dụ như lông rùa sừng
thỏ, nên bài tụng nói: “Tánh Biến-kế-sở-chấp không có thật-thể” (thử Biến-kế-sở-chấp,
tự-tánh vô sở hữu).
Còn tánh “Y-tha-khởi”,
là do phân-biệt các duyên trong thế-gian mà sanh. Thí như người nhặm con mắt,
xem hư-không thấy có các hoa đốm, rồi khởi vọng-tưởng phân-biệt: hoa này đỏ hay
trắng, tốt hay xấu, giống thật hoa hay không v.v… Họ không biết rằng:
Trong hư-không chẳng có hoa, do nhặm mắt nên thấy có hoa (Y-tha-khởi).
Trong tánh “Y-tha-khởi” co nhiễm và tịnh; nếu lìa được phần nhiễm-ô
tức là tánh Biến-kế-sở-chấp, thì đặng phần thanh-tịnh, gọi là tánh “Viên-thành-thật”.
Cũng như nước và sóng; nếu sóng xao-động lặng, thì tánh nước yên-tịnh hiện ra.
Bởi thế nên “tánh Viên-thành-thật” với “tánh Y-tha-khởi”, không thể
nói khác hay không khác, cũng như nước với sóng không hai, mà cũng không phải một.
Ba tánh:
1. Tánh Biến-kế-sở-chấp: Vọng – không
tự thể.
2. Tánh Y-tha-khởi:
a. Chơn : Tịnh.
- Có tự thể.
b. Vọng : Niệm. - Có
tự thể.
3. Tánh Viên-thành-thật: Chơn -
chẳng phải có, chẳng phải không.
Câu “như vô-thường đẳng tánh”;
nghĩa là trong Kinh nói: “Tất cả pháp vô-thường, khổ và vô-ngã v.v…” Vô-thường,
khổ và vô-ngã là tánh chung của các pháp; còn các cảnh vật như núi sông cỏ cây v.v…
là tướng riêng của các pháp. Vì tánh, tướng không rời nhau, nên vô-thường,
khổ, vô-ngã đối với các pháp, chẳng phải khác và chẳng phải một.
Câu “phi bất kiến thử bỉ
“; nghĩa là nếu không thấy được tánh Viên-thành-thật đây, thì cũng không thấy được
tánh Y-tha-khởi kia.
Nghĩa này không những trong đạo Phật, ngay đến người thế-tục, nếu không
tu theo Phật-pháp, để ngộ tánh Viên-thành-thật, thì cũng không thể thấy được các
pháp Y-tha-khởi của thế-gian.
CHÁNH VĂN
Hỏi:
Nếu đã có 3 tánh, tại sao đức Thế-Tôn nói:
“Tất cả pháp đều không có tự-tánh”?
Ðáp: NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN
TỤNG VIẾT:
Tức y thử tam tánh
Lập bỉ tam vô tánh
Cố Phật mật ý thuyết
Nhứt thế pháp vô tánh
Sơ tức tướng vô tánh
Thử vô tự-nhiên tánh
Hậu do viễn ly tiền
Sở chấp ngã, pháp tánh
Thử chư pháp thắng nghĩa
Diệc tức thị chơn-như
Thường như kỳ tánh cố
Tức Duy-thức thật tánh.
DỊCH NGHĨA
Luận-chủ nói 3 bài tụng để trả
lời rằng: Phật y-cứ trên ba món tự-tánh này, mà mật-ý nói: “Tất cả pháp
đều không có tự-tánh”.
1. Biến-kế-sở-chấp không tự-tánh, vì
tướng hư-vọng vậy.
2. Y-tha-khởi không có tự-tánh, vì do
các duyên phân-biệt sanh, không phải tự-nhiên có.
3. Viên-thành-thật không có tự-tánh,
do xa-lìa tánh Biến-kế hư-vọng chấp ngã chấp pháp mà hiện.
Ðây là nghĩa thù-thắng của các pháp, cũng gọi là “chơn-như”, vì tánh
nó “thường như” vậy; cũng tức “thật-tánh” của Duy-thức.
LƯỢC GIẢI
Hỏi: Nếu có 3 món tự-tánh,
tại sao đức Thế-Tôn lại nói: “Tất cả pháp đều không tự-tánh”?
Ðáp: Luận-chủ nói 3 bài
tụng để giải-thích: “Phật y-cứ trên ba món tự-tánh, rồi giả lập ba món vô-tánh”.
Ðã nói “Phật giả-lập ba món vô tánh” thì biết rằng chẳng phải thật vô. Sở-dĩ
Phật phương-tiện mật-ý nói như vậy, chẳng qua để đối-trị cái chấp “ba tánh” mà thôi,
chớ không phải thật ý. Cũng như dùng ba món thuốc để đối-trị ba bịnh.
Ba món vô-tánh là:
1. Tướng vô-tánh: nghĩa là tướng
Biến-kế-sở-chấp, hư-vọng không thật có.
2. Tự-nhiên vô-tánh: nghĩa là do
các duyên sanh, không phải tự-nhiên có; nên cũng gọi là “sanh vô-tánh”.
3. Thắng-nghĩa vô-tánh: nghĩa là
do xa lìa các vọng chấp ngã chấp pháp rồi, mới hiện ra tánh này; nên gọi là “Thắng-nghĩa
vô-tánh”.
Thắng-nghĩa vô-tánh, cũng tức là chơn-như, vì tánh nó chơn thật không
vọng, thường như vậy; cũng gọi là “Thật-tánh của Duy-thức”.
3 Vô-tánh
(thuốc) đối-trị 3 tánh (bịnh).
1.
Tướng Vô-tánh để đối-trị Biến-kế
sở-chấp tánh.
2.
Tự-nhiên vô-tánh để đối-trị Tự-nhiên-tánh
(Y-tha).
3.
Thắng-nghĩa vô-tánh để đối-trị
Viên-thành-thậ tánh.