BÀI THỨ BẢY
CHÁNH VĂN
Hỏi:
Như trên đã thành lập Duy-thức tướng và Duy-thức tánh rồi; vậy có bao
nhieu địa-vị? Người nào mới có thể nhập được? Và làm sao để ngộ-nhập?
Ðáp:
Phải là người có đủ giống tánh Ðại-thừa và trải qua năm địa-vị này tu-hành, mới
được ngộ-nhập.
1. Vị Tư-lương.
2. Vị Gia-hạnh.
3. Vị Thông-đạt.
4. Vị Tu-tập.
5. Vị Cứu-cánh.
Hỏi:
Hành-tướng của các vị Tư-luơng như thế nào?
Ðáp:
NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN, TỤNG VIẾT:
Nãi chí vị khởi thức
Cầu trụ Duy-thức tánh
Ư nhị thủ tùy miên
Du vị năng phục diệt.
DỊCH NGHĨA:
Luận-chủ nói bài tụng để trả lời
rằng: Từ khi chưa phát tâm, cho đến khi đã phát tâm cầu an-trụ Duy-thức tánh,
trong thời-gian đó hai món thủ (ngã chấp, pháp chấp) hãy còn miên-phục; hành-giả
chưa có thể chinh-phục hay diệt-trừ được.
LƯỢC GIẢI
Từ trước đến đây đã nói rõ về
Duy-thức cảnh rồi, tức là Duy-thức tướng và Duy-thức tánh. Nay sẽ nói Duy-thức
hạnh và Duy-thức quả, tức là dạy người sau khi học hiểu, phải phát tâm tu-hành rồi
mới chứng được Duy-thức quả.
Vậy từ khi phát tâm tu Duy-thức,
cho đến chứng Duy-thức quả, phải trải qua năm địa-vị?
1. Vị Tư-lương:
Lương phạn, đồ hành-lý. Thí như người đi đường, trước phải sắm-sửa lương phạn
tiền bạc, v.v… để lên đường.
Ðịa-vị này bắt đầu từ khi chưa phát tâm tu Duy-thức quán, cho đến khi
phát Bồ-đề tâm, cầu an-trụ Duy-thức tánh (chơn-như tâm).
Thí như chúng ta nghe trong kinh dạy: “Vạn pháp Duy-thức”; rồi chúng
ta bắt đầu ngày đêm tu Duy-thức quán. Bất luận thời giờ nào hay chỗ nơi nào,
khi thấy nghe hay biết, chúng ta đều quán “tất cả pháp là giả-tướng, Duy-thức biến
hiện”. Chúng ta luôn luôn ở trong Duy-thức quán, cũng như người ở trong cảnh
Tịnh-độ bảy báu trang-nghiêm. Ðược như thế thì tất cả phiền-não không thể
xâm-nhập.
Song, khi mới cầu an-trụ Duy-thức, công tu chưa thâm, năng-lực còn
kém, nên chưa có thể an-trụ Duy-thức tánh được. Lúc bấy giờ hai món phiền-não
(năng-thủ, sở-thủ) còn miên-phục, chưa trổi dậy; cũng như cỏ bị đá đè. Ðến
khi áp-lực được nhẹ đi, thì hai món chủng-tử này sẽ sanh-khởi trở lại.
Duy-thức tánh như ông chủ nhà, phiền-não như kẻ trộm. Kẻ trộm
không bao giờ ưa chủ nhà; chủ nhà lúc nào cũng ghét kẻ trộm.
Duy-thức tánh và phiền-não cũng thế. Nếu không diệt-trừ phiền-não
thì không thể an-trụ Duy-thức tánh được. Bởi thế nên muốn an-trụ Duy-thức
tánh thì quyết-định phải diệt-trừ hai món thủ (ngã, pháp).
CHÁNH VĂN
Hỏi:
Hành-tướng của các vị Gia-hạnh như thế nào?
Ðáp:
NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN, TỤNG VIẾT:
Hiện tiền lập thiểu vật
Vị thị Duy-thức tánh
Dĩ hữu sở-đắc cố
Phi thật trụ Duy-thức.
DỊCH NGHĨA:
Luận-chủ nói bài tụng để trả lời
rằng: Nếu hiện-tiền còn một tí thấy mình an-trụ Duy-thức tánh, thì chưa phải
thật an-trụ Duy-thức tánh, vì còn có chỗ sở đắc vậy.
LƯỢC GIẢI
2. Vị Gia-hạnh:
Gia công tấn-hạnh. Vị Gia-hạnh này cũng như người đi đường, trước phải dự-bị
đồ hành-lý, rồi sắp sửa khởi-hành.
Hành-giả, khi tu Duy-thức quán, thấy cảnh-giới Duy-thức hiện-tiền,
nếu chấp mình chứng được Duy-thức tánh, như thế là còn có chỗ sở-đắc, nên chưa phải
thật chứng Duy-thức. Cũng như ông Nhan-Hồi học Ðạo với đức Khổng-Tử, sau khi
thể-hội được Ðạo, ông nói rằng: “Như có một vật gì đứng đồ-sộ vậy
(1)”. Ðó cũng là cảnh-giới Duy-thức biến,
chẳng qua thức biến không đồng.
Vì chơn-tánh của Duy-thức, chẳng phải có, chẳng phải không, tuy chứng
mà không có gì là chứng, thế mới thật là chứng Duy-thức.
Người an-trụ được chơn-tánh của Duy-thức, cũng như cái tay của người
biết viết chữ: Không thấy có gì khác cả. Bởi thế nên nói “đặng mà không
có gì là đặng”.
Nay người tu Duy-thức, do hiện-tiền còn một tí thấy mình chứng Duy-thức,
nên không phải thật an-trụ nơi Duy-thức tánh.
(1) Nguyên văn như vầy: “Chiêm chi tại tiền, hốt diên
tại hậu; như hữu sở trác lập, cảnh tróc mô vị trúng”: Xem đó ở trước, thoạt vậy
ở sau; như có đứng đồ-sộ, rờ nắm không trúng.
CHÁNH VĂN
Hỏi:
Hành-tướng của các vị Thông-đạt như thế nào?
Ðáp:
NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN, TỤNG VIẾT:
Nhược thời ư sở duyên
Trí đô vô sở đắc
Nhĩ thời trụ Duy-thức
Ly nhị thủ tướng cố.
DỊCH NGHĨA:
Luận-chủ nói bài tụng để trả lời
rằng: Bao giờ cảnh sở-quán và trí năng-quán đều không, khi đó mới an-trụ nơi
Duy-thức tánh, vì đã xa lìa được hai món thủ vậy.
LƯỢC GIẢI
3. Vị Thông-đạt:
Rành-rõ thông-suốt. Vị Thông-đạt này cũng như người đi đường, đã thông-suốt
con đường sẽ đi, bắt đầu khởi-hành, không còn lo ngại.
Hành-tướng của vị này, là khi hành-giả đối với cảnh sở-quán và trí
năng-quán, đều xem như huyễn như hóa, không có sở-đắc.
Vị Gia-hạnh trước, chưa xa-lìa hai món thủ (Ngã-chấp, Pháp-chấp), vì
còn có sở-đắc, nên chưa có thể an-trụ nơi Duy-thức. Ðến vị Thông-đạt này,
thì đã xa-lìa hai món thủ, không có sở-đắc, nên mới thật an-trụ nơi Duy-thức.
Ðoạn văn này, đồng một nghĩa với câu: “Vô trí diệc vô đắc” (không
có trí năng-đắc và cảnh sở-đắc) trong Bát-nhã Tâm-kinh.
CHÁNH VĂN
Hỏi:
Hành-tướng của các vị Tu-tập như thế nào?
Ðáp: NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN, TỤNG VIẾT:
Vô đắc bất tư nghị
Thị xuất thế-gian trí
Xả nhị thô trọng cố
Tiện chứng đắc chuyển y.
DỊCH NGHĨA:
Luận-chủ nói bài tụng để trả lời
rằng: Cảnh-giới “Vô đắc” này không thể nghĩ bàn; đây là “Trí xuất thế-gian”
(vô phân-biệt trí). Do đã xa-lìa được hai món thô trọng (Phiền-não chướng
và Sở-tri chướng) và chứng được hai món chuyển-y (Bồ-đề, Niết-bàn).
LƯỢC GIẢI
4. Vị Tu-tập:
Tu-hành tập luyện. Ðịa-vị Thông-đạt trên, là chỉ thông-suốt giáo-lý, song
chưa tu-tập. Ðến địa-vị này mới tu-tập Lục-độ muôn hạnh, để chứng ngộ chơn-lý.
Ở địa-vị Thông-đạt mới vừa chứng cái “Thể” của trí vô-đắc; đến địa-vị
Tu-tập này mới đặng “Diệu-dụng” của trí vô-đắc. Diệu-dụng của trí này không
thể nghĩa bàn. Những trí còn có sở-đắc là trí của thế-gian; cái trí không
có sở-đắc, mới phải là trí xuất-thế-gian.
TRÍ VÔ-ÐẮC:
-
Vị Thông-đạt mới vừa chứng cái “Thể” của vô-đắc.
-
Vị Tu-tập mới được “Diệu-dụng” của trí vô-đắc.
Vị Tu-tập này đã xả bỏ được chủng-tử của hai chướng là Phiền-não-chứớng
và Sở-tri-chướng; và chứng được hai quả Bồ-đề và Niết-bàn.
Bài tụng trên nói chữ “thô trọng” là chỉ cho hai món chủng-tử của hai
món chướng: Phiền-não và Sở-tri; còn nói chữ “chuyển y”, nghĩa là y-cứ trên y-tha-khởi
tánh, mà chuyển nhiễm trở lại tịnh: chuyển Phiền-não-chướng thành Ðại-giải-thoát
(Niết-bàn), chuyển Sở-tri-chướng thành Ðại-bồ-đề.
Trên tánh Y-tha-khởi:
1. Xả hai món nhiễm.
- Phiền-não-chướng.
- Sở-tri-chướng.
2. Ðặng hai quả thanh-tịnh.
- Ðại Niết-bàn.
- Ðại Bồ-đề.
CHÁNH VĂN
Hỏi:
Hành-tướng của các vị Cứu-cánh như thế nào?
Ðáp:
NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN, TỤNG VIẾT:
Thử tức vô-lậu giới
Bất tư nghị, Thiện, Thường
An-lạc, Giải-thoát thân
Ðại Mâu-ni danh Pháp.
DỊCH NGHĨA:
Luận-chủ nói bài tụng để trả lời
rằng: Ðây là cảnh-giới vô-lậu; cũng gọi là: 1-Bất-tư-nghị, 2-Thiện, 3-Thường,
4-An-lạc, 5-Giải-thoát-thân, 6-Ðại-mâu-ni, cũng gọi là Pháp-thân.
LƯỢC GIẢI
5. Vị Cứu-cánh:
Quả vị rốt-ráo; trong các quả vị tu-hành, đến đây đã cùng tột rồi, không còn quả-vị
nào hơn nữa. Hành-giả chứng được quả-vị Bồ-đề, Niết-bàn là cảnh-giới vô-lậu
rốt-ráo thanh-tịnh.
Nói “Cảnh-giới thanh-tịnh” tức là chỉ cái Tổng-tướng của vị Cứu-cánh;
nếu chỉ Biệt-tướng của vị này thì có 6 món:
1. Bất tư nghị:
Cảnh-giới này không thể dùng trí suy nghĩ hay lời nói luận bàn được.
2. Thiện:
Cảnh-giới này đã xa-lìa hết các pháp nhiễm-ô, bất-thiện.
3. Thường:
Cảnh-giới này thường còn, tột đến đời vị-lai, không có cùng tận vậy.
4. An-lạc:
Cảnh-giới này rất thanh-tịnh vui-vẻ, không có các điều khổ não bức-bách vậy.
5. Giải-thoát-thân:
Do xa-lìa các phiền-não triền-phược, nên được thân Giải-thoát (cảnh-giới của Nhị
thừa).
6. Ðại Mâu-ni hay
gọi là Pháp-thân: Do xa-lìa
được Sở-trí-chướng, nên chứng đặng quả vô-thượng Bồ-đề. Vì quả vị này bản-tánh
rất thanh-tịnh, nên gọi là Ðại Mâu-ni (tịch mặc) cũng gọi là Pháp-thân vậy.
Vị Cứu-cánh
A. Tổng tướng: Cảnh-giới
vô-lậu: Nào Thể, Dụng, Tánh, Tướng đều phi hữu-lậu.
B. Biệt tướng:
1. Ðại-thừa và Tiểu-thừa đều có:
a.
Bất tư nghị: Không thể nói-năng và luận-bàn.
b.
Thiện: Pháp tánh thanh-tịnh.
c.
Thường: Thường còn cùng tận đời vị-lai.
d.
An-lạc: An-vui vắng-lặng, không có bức não.
e.
Giải-thoát-thân: Không có phiền-não triền-phược (cảnh-giới của
Nhị-thừa).
2. Ðặc-biệt của Ðại-thừa:
d.
Ðại Mâu-ni: Rất vắng-lặng thanh-tịnh vô-thượng (cảnh-giới của Phật
chứng).
Cũng gọi “Pháp-thân”:
Vĩnh-viễn xa-lìa hai chướng: Phiền-não và Sở-tri.
Dịch xong tại Chùa Phật-Quang
(Trà-ôn)
Ngày Trừ-tịch năm Canh-tý (14-2-1961)