BÀI
THỨ MƯỜI SÁU
CHƯƠNG
THỨ TƯ
PHẦN TÍN-TÂM, TU-HÀNH (tiếp theo và hết)
C. NÓI VỀ CÁC THỨ MA CHƯỚNG TRONG KHI TU THIỀN
CHÁNH VĂN
Nếu chúng-sanh nào căn lành mỏng ít, bị các tà-ma ngoại-đạo, hoặc quỉ thần làm não
loạn, trong khi hành-giả tham-thiền, chúng hiện các hình-tướng ghê sợ, hoặc hiện
kẻ trai người gái xinh đẹp v.v… thì phải quán Duy-tâm, lúc bấy giờ các ma này tiêu-diệt,
không còn làm gì nữa được.
Hoặc chúng hiện hình chư Thiên, Bồ-tát, Phật, cũng đủ các tướng tốt; hoặc nói thần-chú,
nói pháp bố-thí, trì-giới, nhẫn-nhục, tinh-tấn, thiền-định, trí-huệ; hoặc nói pháp
bình-đẳng, không, vô tướng, vô nguyện, không oán không thân, không nhơn không quả,
rốt-ráo trống không vắng-lặng, gọi đó là chơn Niết-bàn. Hoặc chúng làm cho
hành-giả biết được đời trước của mình (túc-mạng-thông) hoặc biết những việc quá-khứ
vị-lai, biết đặng tâm người (tha-tâm-thông), biện tài vô ngại. Chúng làm cho
hành-giả tham-luyến danh-lợi ở thế-gian v.v… Hoặc ma làm cho hành-giả tánh
không chừng đỗi, hay giận, hay cười, ưa ngủ, nhiều bịnh, hoặc nhiều thương xót,
tâm hay giãi-đãi; hoặc có khi rất tinh-tấn, có lúc lại bê-tha; hoặc sanh tâm nghi
ngờ không tin, và nhiều lo nghĩ; hoặc bỏ pháp tu căn-bản, trở lại tu các tạp hạnh;
hoặc đắm-nhiễm các việc phiền-trược ở thế-gian; hoặc làm cho hành-giả đặng chút
ít phần tương-tợ như các pháp tam-muội, song đó là cảnh bị chứng của ngoại-đạo,
không phải thật tam-muội; hoặc làm cho hành-giả ở trong Ðịnh từ một ngày đến bảy
ngày, tự-nhiên đặng món ăn thơm, ngon, thân tâm vui thích, không biết đói khát;
khiến cho hành-giả rất ưa thích. Hoặc làm cho hành-giả ăn không chừng đỗi,
khi nhiều khi ít, sắc mặt biến-đổi luôn. Khi gặp những cảnh như vậy, hành-giả
phải thường dùng trí-huệ quán-sát, siêng-năng giữ-gìn Chánh-niệm, không nên chấp-thủ,
chớ để cho tâm mình đọa vào lưới tà. Phải như thế hành-giả mới xa lìa được
các ma-chướng.
LƯỢC GIẢI
Người tu thiền-định, khi phá trừ ngũ ấm, sẽ bị trên năm chục món ma, biến-hiện đủ
cách để thử-thách và não-hại người tu Thiền.
Khi gặp các cảnh ma ấy, hành-giả phải dụng tâm như thế nào, và dùng những phương-pháp
gì để diệt trừ, thì trong kinh Lăng-nghiêm Phật đã dạy rất rõ ràng và kỹ lưỡng,
(quí vị nên đọc đoạn Ngũ ấm ma trong quyển Ðại-cương Lăng-nghiêm).
Trong luận này, Ngài Mã-minh Bồ-tát chỉ nói sơ-lược về việc ma: Hoặc chúng hiện
thân Phật, thân Bồ-tát; hoặc nói kinh thuyết pháp thông suốt; hoặc làm cho người
tu thiền biết được việc quá-khứ, vị-lai; hoặc đặng túc-mạng-thông, tha-tâm-thông,
biện tài vô-ngại; hoặc làm cho người tu thiền tham-lam danh-lợi v.v…
Khi gặp các cảnh ma như vậy, hành-giả phải đừng quyến-luyến, nhiễm-trước và đừng
sanh tâm vui mừng hay buồn lo, mà phải luôn luôn quán Duy-tâm; nghĩa là do dụng-công
tu thiền, nên tâm hiện ra các cảnh ma như vậy, chứ không có gì lạ và cũng không
phải chứng chi cả. Kinh Lăng-nghiêm, Phật nói: “… Nếu hành-giả không chấp
mình được Thiền hay chứng Thánh thì tốt; còn chấp mình được Thiền hay chứng Thánh
thì đọa vào tà đạo”. (Bất tác Thánh tâm danh thiện cảnh-giới, nhược tác thánh
giải tức thọ quần tà). Phải dụng tâm như thế thì các cảnh ma kia tự-nhiên
tiêu-diệt. Nếu hành-giả vui mừng, cho mình được Thiền hay chứng Ðạo v.v… thì
bị ma ám-ảnh nhiễu-hại; vì các việc ma là hiện-thân của sự tham-luyến vui buồn chấp
thủ.
CHÁNH VĂN
Phải biết, các pháp thiền-định (tam-muội) của ngoại-đạo tu-tập, đều không rời phiền-não
hữu-lậu, vì tâm còn ngã-mạn, chấp-ngã tham-lam danh-lợi ở thế-gian và cầu người
cung-kính.
Còn tu pháp Chơn-như tam-muội (thiền-định) này thì không có tướng gì để thấy, không
có tướng gì để được, lại có công-năng làm cho các phiền-não lần lần mỏng ít; cho
đến khi xuất-định hành-giả cũng không giãi-đãi. Nếu người tu-hành mà không
tu pháp Chơn-như tam-muội này, thì không thể nhập được dòng giống của Như-lai.
Tu các pháp thiền-định tam-muội của thế-gian, cũng như thiền-định của ngoại-đạo,
đều thuộc trong Tam-giới, vì còn các phiền-não chấp-ngã và say-đắm nhiễm-trước nơi
cảnh thiền. Bởi thế nên người tu thiền-định, nếu không có Thiện-tri-thức dẫn-dắt,
thì quyết-định sẽ lạc và ngoại-đạo.
LƯỢC GIẢI
Trong kinh Lăng-nghiêm, khi Phật sắp chỉ dạy phương-pháp tu-hành, thì Phật đã khuyên-bảo
dặn-dò ông A-nan và đại-chúng rằng: “Phải phân-biệt rành-rõ hai món căn-bản,
vọng-tâm phiền-não là căn-bản của sanh-tử luân-hồi và chơn-tâm thanh-tịnh là căn-bản
của Bồ-đề Niết-bàn. Nếu các ông nhận lầm phiền-não là căn-bản của sanh-tử
luân-hồi làm nhơn tu-hành, thì không bao giờ thành Phật được. Cũng như người
nấu cát làm cơm, không bao giờ thành cơm được; và cũng như người nhận giặc làm con,
chỉ bị nó phá hại mà thôi”. Bởi thế nên, đoạn này Bồ-tát Mã-minh phân-tách
rành-rõ tà-định và chánh-định, để cho hành-giả khỏi lầm-lạc.
Thiền-định của ngoại-đạo và thế-gian là do phiền-não hữu-lậu làm động-cơ thúc đẩy,
như vì lợi-dưỡng, cầu người cung-kính v.v… mà tu. Khi tu thiền, thấy được
một vài thắng-cảnh thì họ ngã-mạn cống-cao và tham-ái nơi cảnh thiền v.v…
Bởi thế nên tu chừng nào, thì lại tăng-trưởng bản-ngã, thêm nhiều phiền-não, đào
sâu hố tà, luân-hồi mãi trong tam giới.
Còn thiền-định của chư Phật là do chơn-tâm thanh-tịnh (chơn-như) làm động-cơ, nên
không vì lợi dưỡng hay cầu người cung-kính, khi thấy thắng-cảnh, chỉ quán là duy-tâm,
không móng tâm tham-luyến, không ngã-mạn cống-cao, không nuôi lớn bản-ngã.
Bởi thế nên hành-giả tu chừng nào thì phiền-não càng tiêu, được vào cảnh-giới của
chư Phật.
Tóm lại, người tu thiền-định, nếu không có Thiện-tri-thức (Minh-sư Chánh-đạo) đễ
dẫn-dắt, thì dễ lạc vào tà-kiến ngoại-đạo.
D. MƯỜI ÐIỀU LỢI-ÍCH TU THIỀN-ÐỊNH
CHÁNH VĂN
Người chuyên tâm minh-tấn tu pháp tam-muội này (Chơn-như tam-muội) thì hiện đời
sẽ được mười điều lợi-ích:
1.
Ðược mười phương chư Phật và Bồ-tát thường hộ-niệm.
2.
Không bị các ma-quỉ khủng-bố.
3.
Không bị chín mươi lăm thứ thiên-ma ngoại-đạo làm mê hoặc.
4.
Xa-lìa những việc hủy-báng Chánh-pháp và các tội chướng nặng-nề dần dần mỏng ít.
5.
Diệt hết các nghi-ngờ và những sự thấy nghe tội lỗi.
6.
Ðối với các cảnh-giới của chư Phật, lòng tin tăng-trưởng.
7.
Xa-lìa các điều ăn-năn lo-lắng và đối với việc sanh-tử, tâm không khiếp sợ.
8.
Tâm được nhu-hòa, bỏ tánh kiêu-mạn, chẳng bị người làm não-hại.
9.
Dù chưa chứng Ðịnh, song trong tất cả thời-gian, tất cả cảnh-giới, hành-giả có thể
làm cho các phiền-não tổn-giảm và không tham vui ở thế-gian.
10. Nếu
được Tam-muội thì không bị các âm-thinh của trần-gian và các ngoại duyên làm chao
động.
LƯỢC GIẢI
Người tu-hành là một vị Tướng-soái cùng với các ma-quân trường-kỳ kháng-chiến, không
phải kháng-chiến một năm một tháng, mà phải nhiều đời nhiều kiếp, không phải một
ngày một buổi, mà phải đánh từng giờ từng phút với giặc nội-tâm (phiền-não).
Cố-nhiên hành-giả phải trải qua ba giai-đoạn: Giai-đoạn thứ nhứt là tự-vệ, phải
trải qua một a-tăng-kỳ kiếp (một vô số kiếp), hành-giả thua nhiều thắng ít; giai-đoạn
thứ hai là cầm-cự, trải qua một a-tăng-kỳ kiếp thứ hai, hành-giả năm ăn năm thua;
giai-đoạn thứ ba là phản-công, cũng trải qua một a-tăng-kỳ kiếp nữa, hành-giả thắng
nhiều thua ít.
Tuy nhiên, nếu hành-giả thành-tâm chuyên nhứt, tinh-tấn tu-học pháp “chơn-như tam-muội
”, thì sẽ được mười điều lợi-ích như trên; mà điều lợi-ích thứ nhứt là được chư
Phật và Bồ-tát thường hộ-niệm; như vậy, lo chi chẳng được thành đạo chứng quả.
(Trên đã nói tu Chỉ, tiếp theo đây sẽ nói tu Quán).
E. BẢY PHÁP QUÁN
CHÁNH VĂN
Nếu người tu Chỉ (Ðịnh) mà tâm bị trầm-một (chìm lặng) sanh ra giải-đãi, hoặc chẳng
ưa làm các việc lành, xa-lìa tâm Ðại-bi, thì phải tu Quán.
1.
Quán vô thường: Quán tất cả các pháp hữu-vi trong thế-gian, không có lâu dài,
giây phút biến hoại.
2.
Quán khổ: Quán tất cả tâm hạnh là khổ, vì mỗi niệm sanh-diệt không ngừng.
3.
Quán vô ngã: Quán các pháp quá-khứ như chiêm-bao, các pháp hiện-tại như chớp-nhoáng,
các pháp vị-lai như mây tụ tán.
4.
Quán bất tịnh: Quán tất cả thân-hình nam nữ trong trần-gian đều bất tịnh,
đủ các thứ ô-uế, không có một chút gì sạch sẽ đáng ưa.
5.
Quán Ðại-bi: Hành-giả phải thường nhớ tất cả chúng-sanh từ vô-thỉ đến giờ,
đều bởi vô minh huân-tập, làm cho tâm sanh-diệt, và đã thọ không biết bao nhiều
thân hình khổ não; hiện-tại đây vẫn bị vô lượng sự khổ sở đang áp-bức; cho đến vị-lai
cũng còn chịu các điều khổ-não, không biết chừng nào cùng tận. Chúng-sanh
bị các khổ-sở như thế, không thể lìa bỏ được, thế mà không hay không biết, thật
đáng thương-xót.
6.
Quán Ðại-nguyện: Hành-giả thường suy-nghĩa chúng-sanh khổ-sở như thế, nên
phát tâm dõng-mãnh, tu tất cả công-đức lành, lập lời thệ-nguyện rộng lớn:
“Nguyện cho tâm tôi không còn phân-biệt thân sơ (đồng thể) để dùng vô lượng phương-tiện
cứu-độ tất cả chúng-sanh khổ-não khắp cả mười phương, cùng tận vị-lai, đều được
an-vui Niết-bàn”.
7.
Quán Tinh-tấn: Do hành-giả đã phát nguyện rộng lớn như vậy, nên trong tất
cả thời-gian và tất cả mọi nơi, phải siêng-năng tu-học, tùy theo khả-năng của mình
mà làm các việc lành, tâm không giải-đãi.
LƯỢC GIẢI
Hành-giả nếu tu “ Chỉ “ mà không tu “ Quán “ thì có thể sanh ra những tai-hại là
xa-lìa tâm Ðại-bi, không ưa làm các việc lành. Bởi thế nên muốn tránh những
tai-hại ấy, hành-giả phải tu “ Quán “.
Trước nhứt, hành-giả phải quán “ Tứ niệm xứ “để thấy rõ thân-tâm và thế-giới đều
là “vô thường, khổ, vô ngã và bất tịnh “. Tiếp đó hành-giả dùng quán Ðại-bi,
quán cái khổ của chúng-sanh vô-biên, để khởi lòng đại-bi cứu-độ. Rồi tiếp
dùng quán Ðại-nguyện, nghĩa là khi đã thấy chúng-sanh khổ quá, nên hành-giả tự phát
lời thệ-nguyện rộng lớn và dũng-mãnh độ sanh với tâm bình-đẳng, không phân-biệt
thời-gian và không-gian. Hành-giả đã lập Ðại-nguyện rồi thì phải dùng quán
Tinh-tấn, nghĩa là phải tận lực của mình làm các điều lợi-ích cho chúng-sanh mười
phương, không khi nào rảnh việc.
G. CHỈ VÀ QUÁN ÐỒNG THỜI TU
CHÁNH VĂN
Chỉ trừ những lúc ngồi chuyên tu pháp “ Chỉ “; còn ngoài ra tất cả thì-giờ khác,
hành-giả đều phải quán-sát những việc gì nên làm, việc gì không nên làm.
Khi đi, đứng, nằm, ngồi, hành-giả phải đồng thời tu cả Chỉ và Quán. Nghĩa
là hành-giả tuy trong khi quán tự-tánh của các pháp không sanh (Chỉ), nhưng cũng
quán do nhơn-duyên hòa-hiệp, nên nghiệp lành dữ và quả-báo khổ vui không mất (Quán).
Tuy trong lúc quán do nhơn-duyên hòa-hiệp nghiệp-báo không mất (Quán), nhưng hành-giả
cũng quán tự-tánh của các pháp không sanh (Chỉ).
LƯỢC GIẢI
Bồ-tát Mã-minh dạy hành-giả trong bốn oai-nghi: đi, đứng, nằm, ngồi đều phải tu
cả Chỉ và Quán. Trong khi quán các pháp vô sanh, để trừ tâm tham-lam ái-trước
v.v… thì hành-giả cũng quán nhơn-duyên hòa-hiệp, nhơn-quả lành dữ không mất, để
rộng tu các việc lành và giáo-hóa chúng-sanh. Tuy “quán không” mà chẳng bỏ
muôn hạnh lành; tuy “ quán có ” mà tâm-tánh vẫn thanh-tịnh, không nhiễm-trước ái-luyến
một cảnh nào. Ðó là lợi-ích của Chỉ và Quán đồng thời tu vậy.
H. LỢI-ÍCH TU CHỈ QUÁN
CHÁNH VĂN
Phàm-phu chỉ tu “ Chỉ “ thì trừ được tâm nhiễm-trước thế-gian; Nhị-thừa tu “ Chỉ
“ thì bỏ được tâm khiếp-nhược. Phàm-phu tu “Quán”, xa-lìa được cái bịnh chẳng
ưa tu pháp lành; Nhị-thừa tu “Quán”, đối-trị được tâm hẹp-hòi, ích-kỷ, chẳng khởi
Ðại-bi. Bởi thế nên phải tu cả Chỉ và Quán, giúp nhau mới thành, không thể
rời nhau được. Nếu hành-giả không tu cả Chỉ và Quán, thì không thể vào đạo
Bồ-đề.
LƯỢC GIẢI
Nhờ tu “ Chỉ “ nên hành-giả ngăn được sự tham-trước và khiếp-nhược. Nhờ tu
“Quán” nên hành-giả phát-khởi tâm Ðại-bi và làm lợi-ích cho chúng hữu-tình.
Bởi thế nên pháp Chỉ, Quán (Ðịnh, Huệ) là con đường lớn của hành-giả để vào cõi
Phật.
I. PHÁP MÔN NIỆM PHẬT
CHÁNH VĂN
Lại nữa, nếu có chúng-sanh nào mới tu pháp này, tâm còn khiếp-sợ, muốn được Chánh-tín,
nhưng lo sợ “ở cõi Ta-bà không thường gặp Phật, nghe pháp và cúng-dường, sợ e lòng
tin của mình không thành-tựu”, muốn thối chí, thì những chúng-sanh ấy, nên biết
rằng: Phật còn có phương-tiện thù-thắng, bảo-đảm tín-tâm của hành-giả được thành-tựu.
Phương-tiện ấy là “Nhơn-duyên chuyên tâm niệm Phật, cầu sanh về cõi Phật ở phương
khác, để thường được thấy Phật, nghe pháp”, thì chắc-chắn xa-lìa được ác-đạo.
Trong Khế-kinh, Phật dạy: “Nếu người chuyên tâm niệm Phật A-di-đà ở thế-giới
Cực-lạc phương Tây, và đem công-đức tu-hành hồi-hướng phát-nguyện cầu sanh về đó,
thì quyết-định sẽ sanh về thế-giới Cực-lạc, được thường thấy Phật và nghe pháp,
không bao giờ thối chuyển”.
Nếu hành-giả quán chơn-như Pháp-thân của Phật A-di-đà và thường siêng-năng tu-tập;
thì rốt-ráo sẽ được sanh vào hàng ngũ chánh-định.
LƯỢC GIẢI
Hành-giả muốn hái quả Phật, tất nhiên phải leo lên cây Bồ-đề cao 6 thước, là:
Bố-thí, Trì-giới, Nhẫn-nhục, Tinh-tấn, Thiền-định và Trí-huệ. Quan-trọng nhứt
là hai thước sau; trong Luận này gọi là Chỉ và Quán. Ðó là điều duy-nhứt của
các vị Bồ-tát đã và sẽ chứng quả Phật.
Nhưng, có người lo ngại: “Chúng phàm-phu đến quả Phật, phải tu nhiều kiếp
và trải qua thời-gian lâu xa là ba vô số kiếp; hơn nữa, ở cõi Ta-bà này có rất nhiều
chướng-ngại, và không thườn gặp Phật, sợ tu khó thành công”. Muốn cho những
người ấy hết lo-ngại, bảo-đảm sự tu-hành chắc-chắn được kết-quả, nên Bồ-tát Mã-minh
chỉ thêm một phương-tiện thù-thắng của Phật, là dạy người “Nhứt tâm niệm Phật, hồi-hướng
cầu sanh về cõi nước của Phật A-di-đà, đẻ thường gặp Phật và làm bạn với các vị
Bồ-tát, ngày đêm sáu thời thường nghe tiếng pháp; cho đến gió thổi, cây rung, suối
reo, chim hót, cũng đều diễn ra những pháp: Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ-đề, Bát Chánh-đạo
v.v…” Như trong kinh A-di-đà nói:
“Hành-giả gặp hoàn-cảnh thuận-tiện, tốt đẹp như thế, thì lo gì chẳng thành đạo chứng
quả. Bởi thế nên pháp “Nhứt tâm niệm Phật” là phương-tiện thù-thắng nhứt của
đức Ðại-bi Thế-tôn.
(Hết chương
thứ tư là Tín-tâm, Tu-hành).
CHƯƠNG
THỨ NĂM
LỢI-ÍCH VÀ KHUYÊN TU
CHÁNH VĂN
Pháp Ðại-thừa bí-mật của chư Phật, tôi đã nói một cách tổng-quát rồi. Néeu
có người nào đối với pháp Ðại-thừa của Như-lai (thậm thâm cảnh-giới) đã không nghi-ngờ
bài-báng, lại còn sanh tâm chánh-tín muốn vào Ðại-thừa, nên họ thọ-tri (văn) suy-nghĩ
(tư) và tu-tập (tu) theo Luận này, thì người ấy sẽ được đạo vô-thượng Bồ-đề.
Nếu người nào nghe đến Pháp Ðại-thừa này mà tâm không nghi sợ, thì người ấy sẽ được
chư Phật thọ-ký và quyết-định sẽ nói dòng Phật.
Giả-sử có người giáo-hóa chúng-sanh cả Ðại-thiên thế-giới (một nghìn triệu thế-giới
nhỏ) đều tu Thập-thiện, công-đức của người này tuy nhiều, nhưng không bằng có người,
chỉ ở thời-gian ngắn như trong bữa ăn, tu pháp Ðại-thừa này, thì công-đức lại nhiều
hơn người trước không thể so-sánh được.
Lại nữa, nếu có ngườ, hoặc trong một ngày đêm, thọ-trì, quán-sát và tu-hành theo
Luận này, thì người ấy sẽ được công-đức vô-lượng vô biên, không thể nói hết.
Dầu cho mười phương chư Phật ở trong vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp (vô số kiếp)
tán-thán công-đức của người đó cũng không hết. Tại sao vậy? -
Bởi vì pháp Ðại-thừa (Phật-tánh) có công-đức không cùng tận; Luận này nói về pháp
Ðại-thừa, nên người thọ-trì và tu-tập theo luận này, cũng được công-đức vô lượng
vô biên như vậy.
Nếu chúng-sanh nào đối với luận này mà hủy-báng, không tin, thì chúng-sanh đó sẽ
bị tội báo lớn, trải qua vô lượng kiếp thọ khổ não. Vì thế nên chúng-sanh
phải tin-tưởng, không nên hủy-báng Luận này, bởi có hại cho mình và người, đoạn
tuyệt giống Tam-bảo.
Tất cả chư Phật đều do pháp Ðại-thừa này mà được Niết-bàn; các vị Bồ-tát cũng nhờ
tu pháp Ðại-thừa này mà đặng vào trí Phật. Các vị Bồ-tát quá-khứ, hiện-tại
và vị-lai đều tu theo pháp Ðại-thừa này mà được thành-tựu đức tin thanh-tịnh.
Bởi thế nên chúng-sanh phải siêng-năng tu học.
LƯỢC GIẢI
Chương thứ năm này là nói về sự lợi-ích và khuyên người tu-hành. Bộ Luận này
nói về pháp Ðại-thừa, tức là tâm chúng-sanh hay Phật-tánh, hoặc gọi chơn-như hay
Pháp-thân v.v… Chư Phật, Bồ-tát quá-khứ, hiện-tại và vị-lai đều tu theo pháp
Ðại-thừa mà được thành đạo chứng quả. Bởi thế nên người tu theo pháp Ðại-thưà
chỉ trong thời-gian ngắn, như trong bữa ăn hay một ngày đêm, công-đức người này
nhiều hơn người dạy chúng-sanh trong Ðại-thiên thế-giới tu Thập-thiện; vì tu Thập-thiện
chỉ hưởng phước hữu-lậu ở cõi Trời; và mười phương chư Phật tán dương công đức của
người tu theo Ðại-thừa cũng không hết, vì công đức này thuộc về chơn-tâm thanh-tịnh
vô lậu, biến khắp tất cả.
Trái lại, nếu chúng-sanh nào hủy-báng không tin Luận này, tức là hủy-báng không
tin pháp Ðại-thừa hay không tin tánh Phật, tâm chơn-như v.v… của mình, thì chúng-sanh
đó tự đoạn pháp-thân huệ-mạng của mình, làm mất giống Phật-Pháp của mìh, nên nhiều
kiếp phải chịu sanh-tử luân-hồi trầm-luân trong biển khổ.
Vì thế nên chúng-sanh không nên nghi-ngờ hủy-báng, mà phải tin-tưởng và tu theo
Luận này.
BÀI KỆ HỒI HƯỚNG
CHÁNH VĂN
Nghĩa lý rộng sâu của chư Phật
Tôi nay tổng-quát nói đã rồi
Nguyện đem công-đức về Pháp-tánh
Tất cả chúng-sanh đều được lợi.
LƯỢC GIẢI
Theo lệ thường, các vị Bồ-tát khi tạo Luận, trước nhứt nói bài kệ quy kính Tam-bảo,
để cầu Tam-bảo gia-hộ cho việc làm của mình được khế lý và hợp cơ; rốt sau nói bài
kệ hồi-hướng, để hồi-hướng cho tất cả chúng-sanh đều nhờ công-đức này mà được lợi-lạc.
Ðây là bài kệ hồi hướng.
Dịch
chánh văn xong ngày 27 tháng giêng Tân-sửu
Lược-giải
và tu chỉnh, hoàn-toàn xong ngày 28 tháng chạp năm Tâm-sửu (1961)
In xong
giữa mùa Sen nở, năm Nhâm-dần (1962).