KINH KIM-CANG
BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT
Ngài Tam-Tạng
Pháp-sư CƯU-MA-LA-THẬP, dịch chữ Phạn ra chữ Hán.
Sa-môn THÍCH-THIỆN-HOA
dịch lại chữ Việt và lược giải.
LƯỢC GIẢI
Ðề-mục kinh có tám chữ: “Kim-Cang Bát-Nhã Ba-la-mật Kinh”; gọi tắt là “Kinh Kim-Cang”.
KINH: Kinh-điển hay giáo-lý,
do Phật hoặc Bồ-tát nói ra. Chữ “Kinh” có nhiều nghĩa, nhưng tóm lại có ba
nghĩa như sau:
1. Ðường canh (nghĩa đen): Sợi chỉ xuôi trong vải.
Nhờ sợi chỉ xuôi xâu kết các sợi chỉ ngang, để làm thành một tấm vải. “Kinh”
cũng có nghĩa là sự tổng hợp ghi chép lại các lời nói của Phật hoặc Thánh-hiền.
2. Thường: Không thay đổi. Chơn-lý của
Phật không thay đổi; dù Phật quá-khứ, hiện-tại hay vị-lai cũng đều nói chơn-lý như
vậy.
3. Hợp (Khế): Kinh của Phật “hợp với chơn-lý
của vũ-trụ” và “hợp với căn-cơ trình-độ của chúng-sanh”. Cũng một bộ kinh,
mà tùy theo trình-độ của mỗi người, kẻ hiểu cao, người hiểu thấp. Tuy sự hiểu
ngộ có cao thấp không đồng, mà cứ như lý tu hành thì đều được khỏi khổ luân-hồi,
không xót một người nào. Kinh Phật có những đặc điểm như thế, nên gọi là “Khế
kinh”.
KIM CANG: Chữ “Cang”, người Nam đọc là “Cang”, người Bắc đọc là “Cương”.
Có hai nghĩa:
1. Ngọc Kim-cương: thuộc về loại khoáng-chất rất quí
giá. Tánh nó rất cứng và rất bén, không bị các vật phá-hoại, trái lại còn
phá-hoại các vật.
2. Kim-cang: chất cứng rắn trong loại kim-khí,
tức là “thép”, cũng thuộc về loại khoáng-vật. Tánh nó cũng rất cứng bén, và
cũng không bị các vật phá-hoại, trái lại còn phá-hoại các vật, như khoan sắt, đục
đá v.v… dao búa nhờ có thép mới bén.
Chất “cứng rắn” của “ngọc kim-cương” hay của “thép”, đã sẵn có từ hồi nào đến giờ,
không phải do rèn-luyện mới có, hay nhờ các vật bên ngoài tạo thành.
Phật dùng “ngọc kim-cương” hay “chất thép cứng”, để thí-dụ “trí-huệ Bát-Nhã” rất
quí báu và sẵn có trong mọi người (tức là tánh Phật sáng-suốt của mỗi chúng-sanh).
Trí-huệ Bát-Nhã, không phải do tu mới có, hay nhờ các duyên bên ngoài luyện tập
mới thành. Nó có sẵn trong mỗi chúng-sanh từ vô-thỉ đến nay. Dù ở địa-vị
phàm-phu nó cũng không giảm, hay chứng quả Thánh nó cũng không thêm. Nó đã
không bị các vô-minh phiền-não tàn-phá, trái lại còn phá tiêu tất cả vô-minh phiền-não
từ vô-thỉ đến nay. Nó phá một cách rốt-ráo và dễ-dàng, như gió thổi mây bay,
mặt trời chiếu sương mù tan. Bởi thế nên gọi là “Bát-Nhã Ba-la-mật”: Trí-huệ
rốt-ráo.
BÁT-NHÃ: Dịch âm của chữ Phạn “Prajnà”. Vì Trung-hoa không có
chữ dịch cho cân xứng nên chỉ dịch nguyên âm là “Bát-Nhã”.
Bát-Nhã có nhiều nghĩa sâu xa, nhưng tóm lại có sáu nghĩa:
1. Viễn-ly: Xa-lìa các vô-minh, phiền-não vọng-chấp.
2. Minh: Sáng, không mờ tối.
3. Huệ: Sáng tỏ.
4. Thanh-tịnh: Trong sạch không nhiễm-ô.
5. Trí: Thông suốt.
6. Trí-huệ: Sáng tỏ thông suốt.
Bát-Nhã có nhiều nghĩa như vậy, nếu lấy một nghĩa thì không được đúng lắm, nên các
nhà dịch chỉ để nguyên âm chữ Phạn (Bát-Nhã).
Tuy nhiên, trong 6 nghĩa trên đây, nếu đem so-sánh và cân-nhắc, thì có thể dùng
tạm nghĩa “trí-huệ”; vì nghĩa “trí-huệ” có phần rõ-ràng và xác-đáng hơn hết.
Nhưng cần phải chọn lọc thật kỹ, bỏ ra các thứ Trí-huệ sau đây, mới đúng với nghĩa
chữ “Bát-Nhã”:
1. Trí-huệ thế-gian:
Trong thế-gian, những người học rộng thấy xa, thông-minh lanh-lợi, khôn khéo lịch-duyệt,
hay giỏi mọi phương diện, thiên hạ gọi đó là người “trí-huệ”. Nhưng trí-huệ
đó là trí huệ của thế tục phàm-phu, chứ không phải là “trí-huệ Bát-Nhã”.
2. Trí-huệ ngoại-đạo
Chúng ngoại-đạo tu thiền-định (xem bài “Thiền-định” trong Bản-đồ tu Phật) lâu ngày
cũng có trí-huệ, biết được quá-khứ vị-lai, thần-thông biến-hóa vô cùng, nhiều pháp
kỳ lạ. Nhưng trí-huệ đó là tà trí-huệ, chứ không phải là trí-huệ Bát-Nhã.
3. Trí-huệ nhị-thừa
Hàng Thinh-văn và Duyên-giác, do tu pháp Tứ-đế và Thập-nhị Nhơn-duyên mà đặng đạo-quả.
Các vị này đã khỏi sanh-tử luân-hồi, thần-thông tự-tại và có trí-huệ biết được việc
quá-khứ, hiện-tại và vị-lai. Nhưng trí-huệ đó thuộc về Tiểu-thừa trí-huệ,
chỉ thấy về “ngã không chơn-như” (thiên không), chớ chưa thấy được “pháp không chơn-như”,
nên cũng không phải trí-huệ Bát-Nhã.
Trừ ba loại trí-huệ trên đây, duy có trí-huệ của Phật hay của Ðại-thừa Bồ-tát, mới
phải là Trí-huệ Bát-Nhã.
Công dụng của trí-huệ Bát-Nhã, như mặt nhựt chiếu phá các mây mù vô-minh vọng-chấp:
ngã, pháp, bốn tướng (ngã, nhơn, chúng-sanh, thọ-giả) có, không, chẳng phải có,
chẳng phải không v.v… Bởi thế nên trí-huệ Bát-Nhã chiếu soi các pháp, thì
pháp nào cũng đều bỏ hình tướng giả dối, mà hiện ra tướng chơn thật. Tướng
chơn thật của các pháp đã hiện, tức là chơn-tâm, chơn-như hay chơn-lý của vũ-trụ
hiện ra vậy.
Trí-huệ Bát-Nhã, có công-năng như chiếc thuyền đưa chúng-sanh một cách rốt-ráo,
từ bên bờ mê-muội triền-phược của phàm-phu, đến bên kia bờ giác-ngộ giải-thoát của
chư Phật, nên cổ nhơn cũng gọi là “thuyền Bát-Nhã”.
Muốn phân biệt Trí-huệ Bát-Nhã khác với trí-huệ của phàm-phu, ngoại-đạo và tiểu-thừa,
thì chúng ta nên dịch nghĩa chữ “Bát-Nhã” như sau:
1.
Trí-huệ Phật.
2.
Trí-huệ rốt-ráo (Bát-Nhã Ba-la-mật).
3.
Trí-huệ Bát-Nhã (dùng cả chữ Phạn và chữ Hán).
BA-LA-MẬT: “Ba-la-mật” hoặc “Ba-la-mật-đa” là dịch âm của chữ Phạn “Paramita”.
Có hai nghĩa:
1. Ðáo bỉ ngạn.
Ðến bờ bên kia. Trí-huệ Bát-Nhã có công-năng đưa chúng-sanh từ bờ triền-phược
mê-muội của phàm-phu bên này, mà qua đến bờ giác-ngộ giải-thoát của chư Phật bên
kia, nên gọi là “Bát-Nhã Ba-la-mật”.
2. Cứu kính viên-mãn
Hoàn-toàn rốt-ráo. Theo tục-ngữ ở Ấn-độ, phàm làm việc gì, khi đã được hoàn-toàn
viên-mãn, thì gọi là “Ba-la-mật”. Trí-huệ Bát-Nhã là loại trí-huệ rốt-ráo
viên-mãn, nên gọi là “Bát-Nhã Ba-la-mật”.
Tóm lại, “Kim-Cang Bát-Nhã Ba-la-mật Kinh” là kinh nói về “Trí-huệ Phật” (Bát-Nhã),
loại trí-huệ đã rốt-ráo viên-mãn (Ba-la-mật). Trí-huệ này có công-năng đưa
hành-giả từ bến mê-muội triền-phược của chúng-sanh, sang bờ giác-ngộ giải-thoát
của chư Phật (đáo bỉ ngạn).
Trí-huệ Phật (Bát-Nhã) rất quý báu (như ngọc Kim-cương), vừa cứng rắn và vừa sắc
bén (như thép), có thể phá tiêu núi vô-minh vọng-chấp (ngã, pháp hay bốn tướng)
và đốn tận gốc rừng phiền-não nghiệp-chướng, từ vô lượng kiếp đến nay, mà không
bị hư tổn; cũng như ngọc Kim-cương hay chất thép, có thể đục chẻ các loại rất cứng,
như sắt, đá v.v… mà không bị hư hoại.
Phật nói kinh “Ðại Bát-Nhã” tại 4 chỗ, 16 hội, gồm 600 quyển, trong 22 năm mới xong
(nhị thập nhị niên Bát-Nhã đàm). Tóm tắt lại kinh Ðại Bát-Nhã là “Kinh Kim-Cang
Bát-Nhã Ba-la-mật”.
NÓI VỀ SANH, TƯỚNG, THỂ, DỤNG VÀ TÔN-CHỈ CỦA KINH NÀY
Danh: Kinh này lấy “thí-dụ” (Kim-cang) và “pháp” (Bát-Nhã Ba-la-mật) mà đặt
tên.
Tướng: Kinh này lấy “Ðại-thừa” làm giáo-tướng.
Thể:
Kinh này lấy “Thật-tướng” làm thể.
Dụng:
Công-dụng của kinh này là phá các chấp tướng (ngã, pháp) đoạn hết các vô-minh mê-hoặc.
Tôn-chỉ: Kinh này lấy “Vô-trụ” (không trụ chấp nơi nào) làm tôn-chỉ.
KẾT LUẬN
Mới đọc đến đề-mục kinh, chúng ta đã thấy thích-thú lắm rồi ! Ðề-mục kinh
chỉ có tám chữ, mà đã nói lên được rõ ràng nội-dung và tôn-chỉ của kinh: Phật
dạy tất cả chúng-sanh đều sẵn có trí-huệ Bát-Nhã (trí-huệ Phật) từ vô-thỉ đến nay.
Trí-huệ Bát-Nhã (Phật tánh sáng-suốt hay khả-năng thành Phật) rất là quí báu và
cứng bén, như ngọc Kim-cương hay chất thép. Trí-huệ Bát-Nhã có sẵn từ vô-thỉ
đến nay, đã không bị cái gì làm hư hoại; trái lại, còn phá tiêu núi Ngã-tướng, Nhơn-tướng,
Chúng-sanh-tướng và Thọ-giả-tướng, hay núi Ngã-chấp, Pháp-chấp; nói tổng-quát là
phá các vô-minh vọng-chấp từ vô-thỉ đến nay. Nó phá một cách hoàn-toàn rốt-ráo
(Ba-la-mật) và dễ-dàng, như mặt trời chiếu sương tan, gió thổi mây bay.
Trí-huệ Bát-Nhã có công-năng như chiếc thuyền, đưa hành-giả từ bên này bến bờ vô-minh
mê-muội của chúng-sanh, vượt qua khỏi sông mê bể khổ, đến bờ bên kia Giác-ngộ giải-thoát
của chư Phật, tức là “Ðáo-bỉ ngạn” (Ba-la-mật). Bởi thế nên cổ-nhơn gọi là
“Thuyền Bát-Nhã”.
Chúng ta đã sẵn có “trí-huệ Bát-Nhã” hay “trí-huệ Phật”, thì thế nào chúng ta cũng
sẽ thành Phật.
TÊN DỊCH-GIẢ
Ðức Phật Thích-Ca Mâu-Ni nói kinh này tại tinh-xá của ông Trưởng-giả Cấp-cô-độc
trong vườn của Thái-tử Kỳ-đà, ở nước Xá-vệ.
Ngài A-Nan kiết-tập. Ngài Tam-tạng Pháp-sư tên Cưu-ma-la-thập dịch từ văn
Phạn (Ấn-độ) qua văn Trung-hoa.
TAM TẠNG PHÁP-SƯ
Tam-tạng là ba kho tàng; vì có công-năng trùm chứa văn-nghĩa của Phật-pháp, nên
gọi là “Tàng”.
1. Kinh-tạng
Chép những
lời Phật dạy hoặc những lời của các vị Bồ-tát nói ra, khi đã được Phật chứng-nhận.
2. Luật-tạng
Chép những
giới và luật (kỹ-thuật) trong 7 chúng (Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Sa-di, Sa-di-ni, Thức-xoa
và Ưu-bà-tắt, Ưu-bà-di).
3. Luận-tạng
Chép những
lời nghị-luận chánh tà, phân-biệt chơn-vọng của các vị Bồ-tát và chư Tổ.
Thầy giảng “Kinh” thì gọi là “Pháp-sư”.
Thầy giảng “Luật” thì gọi là “Luật-sư”.
Thầy giảng “Luận” thì gọi là “Luận-sư”.
Ngài Cưu-ma-la-thập, thông suốt cả ba tạng và giảng dạy cả Kinh, Luật, Luận nên
gọi Ngài là “Tam Tạng Pháp-sư” (vị Pháp-sư thông ba tạng).
CƯU-MA-LA-THẬP (Kumàralabdha)
Tên của một vị pháp-sư có danh-tiếng lỗi-lạc ở Ấn-độ; bên Trung-hoa dịch nghĩa là
“Ðồng-Thọ”, nghĩa là vị Pháp-sư, tuổi tác thì “đồng-niên”, mà tài đức lại “kỳ-lão”
(thọ).
Kinh này có nhiều bản dịch, nhưng bản dịch của Ngài Cưu-ma-la-thập rất rõ-ràng sáng-suốt,
nên được phổ-biến nhiều hơn hết.
A. PHẦN TỰ
(PHẦN MỞ ÐẦU
KINH BÁT-NHÃ)
Tôi nghe như vầy: Một hôm, tại nước Xá-Vệ, Phật và 1250 vị Ðại Tỳ-kheo, đều
ở Tinh-xá Kỳ-Hoàn, trong vườn của ông Thái-tử Kỳ-Ðà và ông Trưởng-giả Cấp-Cô-Ðộc.
Sắp đến giờ ngọ trai, Phật và chúng tăng đều đắp y, mang bình-bát vào thành Xá-Vệ,
theo thứ lớp khất thực.
Khất thực xong, Phật và chúng tăng đồng về Tinh-xá để thọ trai. Sau khi thọ
trai xong, Phật xếp y, cất bình-bát và rửa chân, rồi trải tọa-cụ, ngồi yên-tịnh.
LƯỢC GIẢI
Ðây là những cử-chỉ bình thường và rất đơn giản; nhưng đã tạo thành một bức tranh
tuyệt-diệu, nói lên được tinh-thần “giải-thoát vô-trụ”, để mở màn cho Phật nói kinh
Bát-Nhã.
Chúng ta hãy định tâm, đọc kỹ lại một lần nữa, những câu sau này, thì chúng ta sẽ
thấy bộc lộ rõ-ràng tinh-thần Bát-Nhã (giải-thoát vô-trụ):
Sắp đến giờ ngọ trai, Phật và chúng tăng đều đắp y, mang bình-bát, vào thành Xá-Vệ,
theo thứ lớp khất thực. Khất thực xong, Phật và chúng tăng đồng về tinh-xá
để thọ trai. Sau khi thọ trai xong, Phật xếp y, cất bình-bát và rửa chân,
rồi trải tọa-cụ ngồi yên-tịnh.
Vì ngộ được tánh “Bát-Nhã giải-thoát”, trùm khắp trên muôn vật, nên cổ-nhơn có nói
hai câu:
Thanh thanh túy trúc, hồng thị Chơn-như
Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát-Nhã.
Dịch nghĩa:
Mướt mướt tre xanh, biểu-lộ Chơn-như
Mởn mởn hoa vàng, trình-bày Bát-Nhã.
Ngài Thái-Hư Pháp-sư giảng:
“Phật nói kinh này để chỉ rõ trong mỗi chúng-sanh đều sẵn đủ bản-thể Kim-Cang Bát-Nhã.
Cái diệu-dụng của Kim-Cang Bát-Nhã là làm cho hành-giả khi tu lục-độ vạn-hạnh, mà
không trụ chấp các tướng.
Người ngọ được Kim-Cang Bát-Nhã rồi thì đối với các pháp và mọi việc đều thông suốt
vô-ngại; những việc làm bình thường hằng ngày đều là Phật pháp; cho đến đi, đứng,
nằm, ngồi v.v… cũng đều là Phật pháp. Những việc thần-thông biến-hóa đều là
diệu-dụng vô-thượng của chư Phật đã đành, mà những nỗi mừng, vui, giận, ghét cũng
là cái phương-tiện hay khéo của Phật pháp.
Trái lại, nếu người chưa nhập được “Kim-Cang Bát-Nhã”, dù có được thần-thông biến-hóa,
di sơn đảo hải đi nữa, thì cũng là tà-thuật của yêu ma ngoại-đạo, dù có thiền định
muôn năm, cũng chỉ hưởng phước quả hữu lậu của cõi nhơn, thiên mà thôi; một mai
nghiệp báo hết rồi, vẫn trở lại thọ khổ luân-hồi trong lục-đạo. Quí vị nên
chín-chắn nghĩ xét !
Kinh Kim-Cang Bát-Nhã, trong mỗi người đều sẵn đủ và khắp cả pháp-giới. Nó
không ở trong, không ở ngoài, không ở chính giữa và cũng không rời trong ngoài và
chính giữa; không thể nghĩ bàn và cũng không thể trụ chấp được. Nếu người
bền chí tu hành lâu dài, thì sẽ có ngày tự nhiên đốn-ngộ. Trái lại, nếu người
hướng ngoại tìm cầu, chấp rằng Phật có thần-thông biến-hóa v.v…. phải có đủ như
thế, mới phải là Phật. Những người chấp như thế, không thể phân-biệt, giản
trạch được thế nào là Phật pháp và thế nào là ngoại đạo. Than ôi ! Nếu
sai một hào ly, thì cách xa ngàn dậm ! Quí vị phải cẩn thận, rất cẩn thận
!”
(KIM CANG GIẢNG-LỤC)
GIẢI DANH-TỪ
TÔI NGHE NHƯ
VẦY:
Trong Trí-Ðộ Luận có chép: “Khi Ðức Như-Lai sắp nhập Niết-bàn, ông Ưu-Ba-Ly
nói với A-Nan rằng: - Ông là người giữ gìn “Pháp tạng” của Phật, ông phải
bạch Phật những điều cần yếu về sau.
Ông Ưu-Ba-Ly và A-Nan cùng nhau đến bạch Phật bốn điều:
1.
Tất cả các kinh của Phật, mở đầu nên để chữ gì?
2.
Phật nhập-diệt rồi lấy ai làm Thầy?
3.
Nương nơi đâu mà trụ?
4.
Xá-lợi và y-bát của Phật, phân như thế nào?
Phật dạy:
1.
Mở đầu các kinh, hãy để “Như thị ngã văn” (tôi nghe như vầy).
2.
Ta nhập Niết-bàn, các ông phải lấy “giới luật” làm Thầy.
3.
Các ông phải trụ nơi pháp “Tứ-niệm-xứ”, (quán thân bất-tịnh, quán thọ thị khổ, quán
tâm vô thường, quán pháp vô ngã).
4.
Xá-lợi của ta chia làm ba phần (một phần thờ tại Nhơn-gian, một phần thờ trên các
cõi Trời, một phần thời dưới Long-cung). Còn y và bát truyền lại cho ông Ma-ha
Ca-Diếp.
TỲ-KHEO
Tỳ-kheo là dịch âm của tiếng Phạn, dịch nghĩa có ba:
1.
Khất-sĩ: là kẻ đi xin: trên xin giáo-pháp của Phật để nuôi tâm, dưới xin vật
thật để nuôi thân.
2.
Pháp ác: Phá trừ các việc tội ác.
3.
Bố ma: Làm khủng-bố các ma.
NGỌ TRAI
Phật độ cơm đúng giờ ngọ (12 giờ trưa) nên gọi là “ngọ trai”. Những thực-phẩm
cúng-dường chư Tăng, trong giờ ngọ, thì gọi là “Trai-tăng”.
Y
Y-phục của chư Tăng, tức là áo Cà-sa. Y-phục của chư Tăng bằng vải, có nhiều
loại: Không điều (mạn y), năm điều, bảy điều và chín điều v.v…
BÌNH BÁT
Ðồ đựng thức ăn của chư Tăng, làm bằng sành v.v… lớn hay nhỏ tùy sức người dùng.
TỌA-CỤ
Tấm vải để lót ngồi của Phật hoặc chư Tăng.