BÀI
THỨ MƯỜI LĂM
CHƯƠNG
THỨ TƯ
PHẦN TÍN-TÂM, TU-HÀNH
CHÁNH VĂN
Chương này là căn-cứ vào nhóm chúng-sanh chưa vào chánh-định mà nói về việc tín-tâm
tu-hành. Về tín-tâm thì ước-lược có bốn món, còn tu-hanh lại có năm món.
A. NÓI VỀ BỐN MÓN TÍN TÂM
1.
Tin căn-bản, tức là ưa nghĩ nhớ pháp Chơn-như.
2.
Tin Phật có vô lượng công-đức; hành-giả thường phải nghĩ tưởng, gần gũi, cung-kính
và cúng-dường chư Phật, để phát-khởi căn lành và nguyện cầu đặng “Nhứt thế trí “.
3.
Tin Pháp của Phật có lợi-ích lớn; hành-giả phải thường nhớ tu-hành các pháp Ba-la-mật.
4.
Tin Tăng là người chơn-chánh tu-hành, tự lợi lợi tha, và hành-giả thường ưa thân-cận
các vị Bồ-tát để cầu học cái hạnh chơn-thật.
LƯỢC GIẢI
Luận này có năm chương, ba chương đầu là phần ly-thuyết, chương thứ tư nói về thật-hành,
tức là việc khởi tín tâm tu-hành, nên chương này rất cần-thiết cho hành-giả.
Vậy người nào mới có thể khởi tín-tâm tu-hành? Bồ-tát Mã-minh nói: “Phải
chúng-sanh chưa vào chánh-định, mới có thể khởi tín-tâm tu-hành”. Tại sao
thế? - Vì những người tà định (ngoại đạo) không đã vào chánh-định rồi, thì
theo Ðại-thừa; còn những người đã vào chánh-định rồi, thì không cần phải nói nữa;
duy có người bất-định (không nhứt định Ðại-thừa hay Tiểu-thừa) chưa vào chánh-định,
mới có thể khởi tín tâm tu-hành theo Ðại-thừa được.
Vậy hành-giả phải tin cái gì? - Có bốn món: Trước nhứt hành-giả phải
tự tin nơi bản-tánh chơn-như của mình, tức là tin mình sẵn có tánh Phật (khả năng
thành Phật), cũng gọi là tin tâm Ðại-thừa. Tin như thế nào? - Phải luôn
luôn tin tưởng và nghĩ nhớ tâm Chơn-như của mình, Thể nó lớn, Tướng nó to, Dụng
nó đại. Ðó là điều tin căn-bản; còn ba điều tin sau này, cũng do tin căn-bản
mà ra, tức là tin Tam-bảo – Tin Phật là người đã chứng được chơn-như; tin Pháp là
phương pháp để thực-hiện chơn-như; tin Tăng là người đang thật hành theo chơn-như.
Hành-giả tin Phật để cầu được nhứt-thế-trí; tin Pháp để tu-hành theo các pháp Ba-la-mật;
tin Tăng để học theo hạnh chơn-thật.
CHÁNH VĂN
B. NÓI VỀ NĂM MÓN TU HÀNH
- Bố-thí.
- Trì-giới.
- Nhẫn-nhục.
- Tinh-tấn.
- Chỉ, quán (Ðịnh, Huệ).
Thế nào là
tu Bố-thí? - Nếu thấy có người đến xin, hành-giả có những tài vật gì
tùy theo sức mình, đem bố-thí cho người, thì sẽ được hai điều lợi-ích: tự mình bỏ
được lòng tham-lam, bỏn-sẻn, và người thọ thí được vui mừng. Nếu thấy người
bị tai-nạn, sợ-hãi lo buồn; hành-giả tận khả-năng của mình cứu giúp, làm cho họ
hết lo sợ; gọi là thí vô-úy (bố-thí cái không sợ). Nếu có người đến cầu nghe
Phật pháp; hành-giả tùy theo sự hiểu biết của mình, phương-tiện thuyết pháp; thuyết
pháp với tâm niệm tốt đẹp là nghĩ vì tự lợi lợi tha và hồi-hướng về đạo Bồ-đề, không
vì danh-lợi hoặc cầu người cung-kính.
LƯỢC GIẢI
Về việc tu-hành, hành-giả chỉ tu pháp Lục-độ thì những hạnh tự lợi và lợi tha đều
được đầy đủ.
Bố-thí, có ba thứ: thí tài, thí pháp, và thí không sợ.
1. Tài thí:
Tức là thí
của, có hai thứ của: a) Ðem tiền bạc của-cải của mình giúp cho người, gọi
là ngoại-tài (của ngoài thân); b) Hy-sinh thân-mạng mình để cứu người, như
cho máu những người thiếu máu v.v… gọi là thí nội-tài (của trong thân). Thí
ngoại-tài thì hành-giả sẽ trừ được tâm bỏn-sẻn về tiền của. Thí nội-tài thì
hành-giả sẽ bớt được tâm chấp ngã và tự-ái.
2. Thí pháp:
Tức là thí
phương-pháp, có hai phần: a) Chỉ dạy cho người những phương-pháp (nghề-nghiệp)
chơn-chánh để tự nuôi sống, gọi là thí về pháp thế-gian; b) Dạy người những
phương-pháp tu-hành để giải-thoát sanh-tử luân-hồi, gọi là thí về pháp xuất-thế-gian.
Thí pháp, hành-giả sẽ trừ được tâm bỏn-sẻn về pháp.
3. Thí không sợ:
Tức là thí
cái không lo-sợ, cũng có hai phần: a) Về phần tiêu-cực, mình không làm
cho người lo sợ, gọi là thí không sợ; b) Về phần tích-cực, thấy người bị hoạn-nạn,
đang lo sợ, mình tận lực cứu giúp, làm cho người hết lo sợ, cũng gọi là thí không
sợ. Bố-thí không sợ, hành-giả sẽ nuôi lớn được lòng từ-bi.
CHÁNH VĂN
Thế nào là tu Trì-giới ? - Không sát-sanh, trộm cắp, dâm-dục, không nói lời
dâm thọc, nói lời độc ác, không nói dối, nói thêu dệt, không tham sân si, tật-đố,
dua-nịnh, dối-trá và tà kiến. Nếu là người xuất-gia thì, vì còn dẹp-trừ phiền-não,
nên phải xa-lánh chỗ ồn-ào, thường ở chỗ thanh-vắng, tu hạnh thiểu dục tri túc hoặc
tu hạnh đầu đà v.v… Cho đến một lỗi nhỏ, hành-giả cũng phải sanh tâm hổ-thẹn,
ăn-năn sám-hối và kiên-sợ; không dám khinh giới luật của Phật. Hành-giả phải
giữ-gìn, đừng để cho người chê bai khinh hiềm, tại mình mà họ tạo tội-lỗi.
LƯỢC GIẢI
Giới-luật của Phật chế ra, tổng-quát có ba phần, gọi là “ Tam tụ tịnh giới ” (ba
phần giới thanh-tịnh):
- Bỏ các điều tội lỗi, gọi là “ Nhiếp
luật nghi giới “.
- Làm các việc lành, gọi là “ Nhiếp thiện
pháp giới “.
- Làm lợi-ích chúng-sanh, gọi là “ Nhiêu ích hữu-tình giới “.
Hành-giả tu
theo Ðại-thừa, một mặt là phải giữ ba phần giới này cho thanh-tịnh; một mặt nữa
là đừng làm những điều gì, để cho thế-gian đàm-tiếu, mà họ mang lấy tội lỗi.
CHÁNH VĂN
Thế nào là tu Nhẫn-nhục ? - Nhẫn nhục những điều người ta làm cho mình
khổ-não, trong tâm hành-giả cũng không nghĩ tưởng đến việc trả thù; và nhẫn chịu
tám hướng gió của trần-gian thổi đến: 1- Thạnh-lợi, 2- Suy-bại, 3- Hủy-báng, 4-
Danh-dự, 5- Khen, 6- Chê, 7- Khổ, 8- Vui.
LƯỢC GIẢI
Tất cả những hoàn-cảnh, làm cho hành-giả tạo các tội lỗi, không ngoài tám điều,
gọi là “ Bát-phong “ (tám ngọn gió); nhưng tóm lại thì có hai cảnh: thuận và nghịch.
Tài lợi, danh-vọng, khen ngợi và vui là bốn ngọn gió thuận cảnh, nó thổi vào biển
tâm của hành-giả, làm cho nổi lên vô lượng sóng tham-lam. Suy-bại, hủy-báng
(công kích lỗi người), chê-bai (nói xấu) và khổ là bốn ngọn gió nghịch-cảnh, nó
thổi vào biển tâm hành-giả, làm cho nổi lên không biết bao nhiêu sóng sân-hận.
Hành-giả khi gặp các thứ gió, dù thuận hay nghịch, cũng đều phải giữ-gìn biển tâm
của mình cho yên-lặng; đừng để các sóng phiền-não như tham-lam hay sân si v.v… nổi
lên. Như thế gọi là tu pháp Nhẫn-nhục Ba-la-mật.
CHÁNH VĂN
Thế nào là tu Tinh-tấn? - Lập chí kiên-nhẫn, tu các việc lành, tâm không
trễ-nãi và không khiếp nhược. Hành-giả phải thường nhớ rằng, từ quá-khứ nhiều
kiếp lâu xa đến nay, đã thọ không biết bao nhiêu thân tâm hư-giả và chịu không biết
bao nỗi khổ lớn-lao, đều không có lợi-ích gì cả. Bởi thế nên đời nay, ta phải
siêng năng tu các công-đức, làm những việc tự lợi lợi tha, để mau xa lìa các khổ.
Lại nữa, nếu người tín tâm tu-hành, mà bị các nghiệp-chướng đời trước làm chướng-ngại,
hoặc bị các tà-ma ác-quỉ nhiễu-hại, hay bị việc đời ràng buộc, hoặc vì bịnh khổ
làm não bức v.v… thì hành-giả phải tinh-tấn dõng-mãnh, ngày đêm sáu thời lễ Phật
tụng kinh, thành-tâm sám-hối, thường hành không bỏ phế; khuyên thỉnh Phật trụ thế
và tùy-hỷ các việc công-đức, để hồi-hướng về đạo-quả Bồ-đề. Phải làm như thế,
hành-giả mới khỏi các điều chướng-ngại và căn lành tăng-trưởng.
LƯỢC GIẢI
Tinh-tấn là một yếu-tố để thành-công trên đường đời cũng như trên đường Ðạo.
Người tu-hành nếu thiếu tinh-tấn thì không bao giờ thành đạo chứng quả được.
Tinh là tinh-chuyên một việc; Tấn là tiến tới không dừng.
Hành-giả lập chí dõng-mãnh, chuyên tu các pháp lành, tâm không khiếp-nhược, phải
thường nhớ rằng: Từ vô lượng kiếp đến nay, ta thọ biết bao nhiêu thân, chịu biết
bao nhiêu khổ, nhưng không làm được điều lợi-ích gì cả! Vậy đời này ta phải
tu các công-đức, để xa-lìa các tội khổ. Nếu người bị nghiệp-chướng đời trước
nặng-nề, hoặc tà-ma ác-quỉ nhiễu-loạn, hay việc đời ràng-buộc, bịnh hoạn làm khổ
não v.v… khó thành đạo được; hành-giả phải ngày đêm sau thời, tụng kinh sám-hối,
không nên bê-trễ, thì các chướng ngại sẽ hết, và căn-lành tăng-trưởng.
CHÁNH VĂN
Thế nào là tu Chỉ, Quán? - Chỉ nghĩa là đình-chỉ tất cả các vọng-tưởng (định),
để tùy-thuận theo quán-không (xa-ma-tha); Quán nghĩa là quán-sát các tướng nhơn-duyên
sanh-diệt (huệ) để tùy-thuận theo quán-giả (tỳ-bác-xá-na).
Sao gọi là tùy-thuận? - Do hành-giả từ từ tu-tập, một lần cả Chỉ và
Quán, đều không rời nhau, nên gọi là tùy-thuận.
LƯỢC GIẢI
Tu Chỉ, Quán tức là tu Thiền-định và Trí-huệ. Chỉ là đình-chỉ các vọng-tưởng,
tức là Ðịnh; Quán là quán-sát để thấu rõ chơn-lý của các pháp, tức là Huệ.
Tu Chỉ, Quán sẽ được Ðịnh, Huệ; vì Chỉ, Quán là Nhơn, mà Ðịnh, Huệ là Quả.
Trong Lục-độ, chia riêng ra Thiền-định và Trí-huệ là muốn cho hành-giả thấy rõ hành-tướng,
công-dụng và kết-quả của hai pháp-môn khác nhau. Trong Luận này về chướng
“Tín-tâm, tu-hành”, Bồ-tát Mã-minh cũng dạy tu Lục-độ, nhưng hai độ sau lại chung
một và không gọi tu Ðịnh, Huệ mà gọi tu Chỉ Quán? - Vì Bồ-tát muốn cho
hành-giả phải hiểu rằng: Về phần tu nhơn thì hai pháp này rất liên-quan với
nhau, nên không thể rời nhau; nghĩa là hành-giả phải đồng thời tu cả Chỉ và Quán.
Trong Chỉ có Quán, trong Quán có Chỉ.
Thế nào là trong Chỉ có Quán? - Nghĩa là muốn ngăn-ngừa đình-chỉ không
cho các vọng-tưởng nổi lên, thì hành-giả phải quán-sát các pháp là không; bởi các
pháp là không, nên hành-giả chẳng chấp có, và không khởi tâm tham-sân v.v…
Thế nào là trong Quán có Chỉ ? - Nghĩa là hành-giả quán-sát các pháp
đều do nhơn-duyên hòa-hiệp, sanh không phải thật sanh, mà diệt cũng phải thật diệt.
Vì các pháp do nhơn-duyên hòa-hiệp giả có, nên hành-giả chẳng chấp không, và chẳng
sanh các phiền-não.
NÓI VỀ TU CHỈ (ÐỊNH)
CHÁNH VĂN
Nếu tu “ Chỉ “ (định), hành-giả phải ở chỗ thanh-vắng, ngồi ngay thẳng, tâm chơn-chánh,
chẳng nương hơi thở, chẳng nương hình sắc và hư-không, chẳng nương đất, nước, gió,
lửa, chẳng nương thấy, nghe, hay, biết, cho đến các tưởng niệm đều diệt trừ, rồi
hành-giả dẹp luôn cái “ tâm niệm “ trừ tưởng-niệm nữa.
Do tất cả các pháp từ hồi nào đến giờ, mỗi niệm không sanh, mỗi niệm không diệt,
nên hành-giả phải không các tưởng-niệm và cũng không tưởng cảnh-giới ngoài tâm,
rốt sau rồi lấy tâm trừ tâm. Nếu tâm vọng-tưởng rong-ruổi, thì hành-giả phải
liền đem trở lại chánh-niệm. Phải biết “chánh-niệm” đây, tức là “duy-tâm”,
không có ngoại-cảnh. Và cái tâm này cũng không hình-tướng gì có thể tưởng-niệm
được.
LƯỢC GIẢI
Hành-giả tu Ðịnh (Chỉ), phải ở chỗ thanh-vắng, tránh xa nơi ồn-ào náo-nhiệt; thân
ngồi ngay thẳng, không ngước không cúi; tâm phải chơn-chánh, tỉnh-táo sáng-suốt
và tịch-tịnh, không phù không trầm; phải thoát ly thân, nghĩa là không nương hơi
thở (không sổ-tức), không nương hình sắc; phải thoát ly thế-giới, không nương hư-không
và tứ đại; và phải thoát ly tâm, không nương thấy nghe hay biết.
Hành-giả phải trừ hết các tưởng-niệm, rồi cái tâm-niệm trừ các tưởng đó cũng dứt
luôn; phải biết các pháp từ hồi nào đến giờ, chỉ là nhứt tâm (duy-tâm), không sanh
không diệt, không có cảnh-giới ngoài tâm. Bởi thế nên tâm vừa vọng-động rong-ruổi
theo trần-cảnh, thì hành-giả phải thâu lại đem về chánh-niệm tức là nhứt tâm, gọi
là “dùng nhứt tâm diệt các vọng-tưởng”; rốt sau cái “tâm” này (nhứt tâm) cũng không
còn, gọi là “dùng tâm trừ tâm”.
Các vị Cổ-đức có dạy rằng: “Người tham-thiên, trong phải thoát ly thân tâm,
ngoài xa-lìa cảnh-giới; nghĩa là phải rời tâm, ý, thức mà tham-cứu, phải ra khỏi
con đường thánh phàm mà tu học, phải viễn-ly các cảnh-giới vọng-tưởng mà cầu đạo”.
Tóm lại, là phải phóng xả tất cả.
CHÁNH VĂN
Lại nữa, trong tất cả thì-giờ, khi đi đứng nằm ngồi, tới lui qua lại, làm tất cả
việc, hành-giả phải thường nhớ phương-tiện (phương-tiện tùy duyên chỉ), nghìa là
tùy-thuận quán-sát. Hành-giả tu tập như vậy lâu ngày thuần-thục, thì tâm được
an-trụ; do tâm an-trụ lần lần mạnh-mẽ, nên dẹp sâu phiền-não, tín-tâm tăng-trưởng,
đặng tùy-thuận vào chơn-như tam-muội, mau thành vị Bất-thối. Chỉ trư những
người nghiệp-chướng sâu dày, nghi-ngờ bài báng không tin, hoặc ngã-mạn biếng nhát,
thì không thể nhập Chơn-như tam-muội được.
Và hành-giả nhờ nương pháp Chơn-như tam-muội này, mà biết được pháp-giới duy-nhứt;
nghĩa là nhận rõ Pháp-thân của chư Phật và thân chúng-sanh bình-đẳng không hai,
nên cũng gọi là Nhứt-hạnh tam-muội.
Phải biết Chơn-như là căn-bản của các pháp tam-muội; nếu hành-giả tu pháp tam-muội
này, thì lần lần sẽ được vô lượng pháp tam-muội.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói về “Phương-tiện tùy duyên Chỉ “; nghĩa là tu thiền-định không những
thường ngồi, mà còn phải phương-tiện tùy duyên tu-tập, không cho gián-đoạn.
Khi đi đứng nằm ngồi làm các việc, hành-giả cũng phải luôn luôn quán-sát tu-tập;
như thế lâu ngày tâm được an-trụ, nhơn đó định-lực lần lần mạnh-mẽ, nên tín-tâm
tăng-tấn, dẹp sâu phiền-não, được tùy-thuận vào Chơn-như tam-muội, thành bực Bất-thối.
Chỉ trừ những người hủy-báng không tin, thì không được vào chơn-như tam-muội.
Hành-giả được Chơn-như tam-muội rồi, thì biết pháp-giới là một, chúng-sanh
và chư Phật bình-đẳng không hai, mê ngộ đồng một tánh, nên cũng gọi là Nhứt-hạnh
tam-muội (Tam-muội đồng nhứt thể).
Chơn-như tam-muội là căn-bản của các pháp tam-muội, nên người ngộ được Chơn-như
tam-muội rồi thì sẽ được các pháp tam-muội khác.
Chữ “Tam-muội”, Tàu dịch là Chánh-định hay Chánh-thọ; nghĩa là tu Ðịnh đã đến lúc
thuần-thục hay đúng mức.
(Ðã nói tu thiền-định, tiếp sau đây sẽ nói các việc ma).