BÀI
THỨ MƯỜI MỘT
PHẦN
GIẢI THÍCH
NÓI VỀ NGHĨA “BẤT-GIÁC” (tiếp theo và hết)
CHÁNH VĂN
Nói về
Dụng rộng lớn của tâm chơn-như:
Các đức Phật từ khi tu nhơn (Bồ-tát đạo) đã phát tâm đại từ-bi, tu các pháp Ba-la-mật,
giáo-hóa chúng-sanh. Các Ngài lập lời thệ-nguyện rộng lớn, độ thoát tất cả
chúng-sanh cho đến cùng tận đời vị lai, không hạn định bao nhiêu số kiếp.
Các Ngài xem tất cả chúng-sanh như thân mình và cũng không thấy (chấp) có tướng
chúng-sanh để độ. Tại sao vậy? - Vì các Ngài đã chơn-thật hiểu-biết:
Tất cả chúng-sanh và mình không có sai khác, đồng một tâm chơn-như bình-đẳng.
Các Ngài đã dùng đại trí-huệ diệt hết vô-minh, nên chơn-như (Pháp thân) được hiện
ra. Do chơn-như đã hiện, nên tự-nhiên có các món diệu-dụng không thể nghĩ
bàn. Bởi diệu-dụng từ thể chơn-như hiện ra, nên Dụng đồng với Thể chơn-như,
đều biến khắp tất cả, và cũng đều không có hình tướng gì để thấy được.
Tại sao vậy? - Vì các đức Phật chỉ có Pháp thân thanh-tịnh, tức là Trí-thân
(tâm), không có hình sắc (cảnh giới) và cũng không có tạo tác. Song, tùy theo
trình-độ của chúng-sanh, hoặc thấy hoặc nghe, đều được lợi-ích, nên gọi là “Dụng
lớn”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói về “Dụng lớn” của tâm chơn-như.
Các vị Bồ-tát, dùng đại trí-huệ, diệt trừ hết vô-minh, chứng được Thể Chơn-như (Pháp
thân). Do các vị Bồ-tát đã chứng được chỗ đồng-thể, nên tự xem mình cùng tất
cả chúng-sanh đồng một bản-thể, không có riêng khác; nếu chúng-sanh đau-khổ, tức
là mình đau-khổ, chúng-sanh còn trầm-luân thì mình chưa được giải-thoát.
Bởi thế nên Bồ-tát, tức nơi thể Chơn-như bình-đẳng khởi ra “Ðại dụng”: Phát tâm
đại từ-bi, lập lời thệ nguyện rộng lớn, tu các pháp Ba-la-mật (lục độ), hóa độ chúng-sanh,
cùng tận đời vị lai, không hạn định bao nhiêu số kiếp, và cũng không chấp có tướng
chúng-sanh để độ.
“Thể” và “Tướng” của chơn-như đều rộng lớn như thế, nên “Diệu-dụng” của chơn-như
cũng không thể nghĩ bàn: Không có hình tướng, không có dụng công và cũng không có
tâm tạo tác; song tùy theo căn-cơ của mỗi chúng-sanh, cảm muốn như thế nào, thì
ứng-hiện ra như thế ấy (như 32 ứng-thân của đức Quan-âm v.v…), làm cho chúng-sanh
đều được lợi-ích, nên gọi là “Ðại dụng”. Như hư-không, tùy các đồ vật mà hiện
đủ hình. Và cũng như trăng rằm, không cố ý (vô tâm) không dụng-công (vô công-dụng)
mà tự-nhiên chiếu khắp tất cả; tùy theo các ao hồ, nước trong hay đục mà trăng tỏ
hay mờ.
CHÁNH VĂN
Diệu-dụng của chơn-như, tùy theo trình-độ của chúng-sanh mà thấy có hai phần:
1.
Ứng-thân.
2.
Báo-thân
-
Chúng phàm-phu và Nhị-thừa, do Phân-biệt sự-thức (ý-thức) nên thấy ứng-thân Phật.
Họ chỉ thấy phần nào về sắc-thân Phật, chớ không thể biết cùng tận, và chỉ chấp
thân ấy từ ở ngoài đến, chớ không biết do tâm (chuyển thức) hiện ra.
-
Các vị Bồ-tát từ khi mới phát tâm, cho đến khi rốt ráo địa-vị Bồ-tát, đều do Nghiệp-thức
(A-đà-na) mà thấy báo-thân Phật. Thân này có vô lượng sắc tướng, mỗi sắc tướng
có vô lượng sự tốt đẹp.
Về quốc-độ
của thân này, cũng đủ vô-lượng vật quí báu trang-nghiêm; tùy sự thị-hiện nơi nào
đều không cùng tận, không có biên-giới và cũng không hư-hoại.
Tóm lại, thân-thể
(chánh-báo) và quốc-độ (y-báo), sở-dĩ đều được thành-tựu các công-đức như thế, là
do sự huân-tập của các hạnh vô-lậu, như các pháp Ba-la-mật v.v… và sự huân-tập bất
tư-nghị (chơn-như huân-tập bên trong). Vì được đầy đủ vô lượng tướng diệu-lạc
như thế, nên gọi là “Báo thân”.
Chúng phàm-phu
thì chỉ thấy sắc-thân thô-sơ của Phật. Còn lục-đạo chúng-sanh do tùy theo
cái nghiệp của mỗi loài khác nhau, nên thấy thân Phật không đồng. Do tùy theo
mỗi loài ứng-hiện, không phải chính thân tướng tốt đẹp (báo thân), nên gọi là “ứng-thân”.
LƯỢC GIẢI
Tùy theo trình-độ của chúng-sanh, mà Diệu-dụng chơn-như thành ra hai phần:
- Ứng-thân:
Thân này chỉ
tùy theo muôn ngàn hoàn-cảnh sai-biệt của lục-đạo chúng-sanh, mà hiện ra muôn ngàn
hình-thức không đồng: loài nào thấy Phật loài nấy. Như hư-không tùy theo các
đồ vật vuông tròn v.v… mà ứng hiện ra đủ các hình-tướng.
Chúng phàm-phu
và hàng Nhị-thừa, vì còn ý-thức phân-biệt, và chấp theo trần-cảnh bên ngoài, không
ngộ lý Duy-thức, nên thấy Phật ngoài tâm mình. Bởi thế nên chỉ thấy ứng-thân
Phật, như thân có 32 tướng tốt v.v…
- Báo-thân:
Thân này là
kết quả của hai món huân-tập:
a. Chơn
như huân-tập, cũng gọi là Bất-khả tư-nghị huân.
b. Các
pháp vô-lậu thanh-tịnh huân-tập, tức là tu các pháp như Lục-độ v.v… Vì thế nên Chánh-báo
(thân-thể) được vô số tướng tốt đẹp, mà Y-báo (hoàn-cảnh) cũng được vô cùng vật
quý-báu trang-nghiêm.
Các vị Bồ-tát từ khi mới phát tâm cho đến lúc rốt-ráo địa-vị Bồ-tát, đều ngộ lý
Duy-tâm, nên thấy Báo-thân Phật Duy-tâm hiện ra, không phải ở ngoài đến. Nhưng
cũng tùy theo trình-độ của từng địa-vị, mà sự thấy có Thô, Tế khác nhau. Bồ-tát
từ địa-vị Thập-tín, Thập-trụ, Thập-hạnh, Thập-hồi-hướng và Tứ-gia-hạnh, chỉ thấy
về phần Thô của Báo-thân Phật. Các vị Bồ-tát từ Sơ-địa lên đến Ðẳng-giác thì
thấy Báo-thân Phật lần lần thù-thắng và vi-diệu.
CHÁNH VĂN
Lại nữa, các vị Bồ-tát mới phát tâm (tam-hiền) do thâm tín chơn-như, nên chỉ thấy
được một phần nhỏ báo-thân Phật. Các vị Bồ-tát này, tuy biết sắc thân Phật
có nhiễm tướng tốt trang-nghiêm, duy-tâm biến-hiện, không rời chơn-như, không khứ
không lai, xa lìa ranh-giới, song các vị Bồ-tát này còn dùng tâm phân-bệt (ý-thức)
nên chưa nhập được Pháp-thân.
Nếu Bồ-tát đặng tâm thanh-tịnh (lên Thánh-địa) thì thấy báo-thân Phật càng tốt đẹp
và càng mầu-nhiệm. Ðến vị Bồ-tát tột bực (Ðẳng-giác) thì thấy báo-thân Phật
mới hoàn-toàn rốt-ráo.
Nếu Bồ-tát lìa được Nghiệp-thức (A-đà-na) thì ngộ được pháp-thân Phậ, không có sắc
tướng gì có thể thấy được; vì pháp thân của chư Phật, không có sắc tướng thế này
thế nọ, không có tướng-phần (bị phân-biệt) và kiến phần (năng phân-biệt), nên không
thể thấy được.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này tiếp theo đoạn trước, nói tùy theo trình-độ của Bồ-tát, thấy thân Phật
khác nhau.
Các vị Bồ-tát ở địa-vị Tam-hiền, tuy đã ngộ được lý Duy-thức và thâm-tín Chơn-như,
nhưng vì còn dùng ý-thức phân-biệt, nên chỉ thấy Báo-thân Phật được một phần ít
thôi.
Các vị Bồ-tát đã ngộ-nhập Chơn-như, chứng được Pháp-thân thanh-tịnh, bước lên Thánh-vị
(Thập-địa); càng lên bực trên chừng nào, thì lại càng thấy Báo-thân Phật tốt đẹp
và mầu nhiệm chừng ấy. Ðến địa-vị cùng tận của Bồ-tát là vị Ðẳng-giác, mới
thấy được rốt-ráo Báo-thân Phật.
Ðến khi Bồ-tát phá trừ được Nghiệp-thức (Vọng-thức: A-lại-da chơn-vọng hòa-hiệp)
tức là phá trừ được vô-minh rất vi-tế (món Tế thứ nhứt trong ba Tế); lúc bấy giờ
mới hoàn-toàn nhập Chơn-như, chứng Pháp-thân thanh-tịnh.
Pháp-thân là bản-thể của các pháp; vì không có sắc-tướng, không có bỉ thử và không
tâm cảnh v.v… nên không thể thấy được. Tất cả chư Phật và chúng-sanh cũng
đồng một bản-thể ấy.
CHÁNH VĂN
Hỏi: Pháp-thân của chư Phật đã không có các sắc-tướng, tại sao lại hiện ra
có các sắc-tướng? (ứng-thân và báo-thân).
Ðáp: Vì Pháp-thân là bản-thể của sắc-tướng, cho nên nó thể hiện ra các sắc-tướng
(hóa-thân, báo-thân). Do từ hồi nào đến giờ, Sắc (hiện tướng), Tâm (bản-thể)
không hai, nên bản-thể của Sắc (sắc-tánh) tức là Tâm (tức trí).
Vì bản-thể của Sắc vô hình (thuộc về tâm) nên gọi là Trí-thân. Vì tướng của
Tâm (trí tánh) tức là Sắc, nên gọi là Pháp-thân.
Vì bản-thể (tâm) đã biến khắp tất cả chỗ, nên hiện-tượng là Sắc, cũng không có chừng
ngắn. Tùy nơi tâm mà hiện ra mười phương thế-giới, vô-lượng Bồ-tát, vô-lượng
Báo-thân, vô-lượng món trang-nghiêm, mỗi mỗi sai khác, đều không có hạn-lượng và
đều không ngại nhau. Vì đây là diệu-dụng đại tự-tại của chơn-như, nên không
thể dùng thức tâm phân-biệt mà biết được.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Luận-chủ đặt ra lời vấn-đáp để giải-thích sự nghi-ngờ.
Hỏi: Pháp-thân của chư Phật thanh-tịnh, không có các hình-tướng, tại sao lại
hiện ra có các sắc-tướng là Hóa-thân và Báo-thân?
Ðại-ý lời đáp: Do từ hồi nào đến giờ, trong Chơn-như Pháp-thân, Sắc và Tâm
không hai: Bản-thể của Sắc tức là Tâm, Hiện-tượng của Tâm tức là Sắc.
Bởi thế nên Chơn-như Pháp-thân tuy không có hình-sắc, mà có thể hiện ra các hình-tướng:
Y-báo và Chánh-báo đầy đủ. Cũng như bản-thể của điện, biến khắp tất cả không-gian,
tuy không có hình-tướng, nhưng có thể hiện ra các sắc-tướng (hiện-tượng) như sấm-sét,
chớp, nổ v.v… Trong Tâm-kinh nói: “Sắc chẳng khác với Không, Không chẳng khác
với Sắc; Sắc tức là Không, Không tức là Sắc”. (Sắc bất dị Không, Không bất
dị Sắc; Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc).
Vì Sắc tức là Tâm, nên các pháp tức là Chơn-như Pháp-thân. Vì Tâm tức là Sắc,
nên Chơn-như Pháp-thân tùy duyên thành các pháp. Do bản-thể đã biến khắp tất
cả, nên hiện-tượng các Sắc-tưóng, như mười phương thế-giới, vô lượng Bồ-tát, vô
lượng món trang-nghiêm v.v… cũng biến khắp tất cả, không có hạn lượng; mặc dù các
hình sắc đều khác nhau, nhưng không trở-ngại nhau. Việc này là diệu-dụng của
Chơn-như Pháp-thân, nên chúng phàm-phu và hàng Nhị-thừa, không thể dùng thức-tâm
của mình mà phân-biệt được.
Do Chơn-như là Bản-thể của các pháp, nên gọi là Pháp-thân; và nó đủ tất cả trí,
nên cũng gọi là Trí-thân.
TRỞ VỀ TÂM CHƠN-NHƯ
CHÁNH VĂN
Lại nữa, các pháp từ sanh-diệt mà trở về Tâm chơn-như; nghĩa là suy xét kỹ càng:
bên trong thì thân ngũ ấm (Sắc: sắc ấm; Tâm: bốn ấm sau) bên ngoài thì cảnh giới
(6 trần) rốt-ráo vô niệm (tức là chơn-tâm). Song, vì chúng-sanh bị vô minh
làm mê, nên chơn-tâm (vô niệm) biến thành hữu niệm (có thân và cảnh v.v…), nhưng
bản-thể chơn-tâm không động (vô niệm).
Cũng như người lầm phương hướng, vì sự mê lầm nên chấp phương Ðông làm phương Tây;
thật ra phương-phướng không thay đổi.
Bởi thế nên, người quán-sát biết được Tâm vô niệm (không khởi vọng niệm) thì đặng
tùy-thuận vào Tâm chơn-như.
LƯỢC GIẢI
Luận này có 5 chương, trong chương thứ ba là Phần Giải-thích, lại chia làm 3 phần
nữa:
1.
Nói về nghĩa chánh.
2.
Ðối-trị các chấp sai lầm.
3.
Phân-biệt hành-tướng phát tâm đến Ðạo.
Trong phần
“Nói về nghĩa chánh”, lại chia làm ba:
I.
Nói về Tâm Chơn-như.
II.
Nói về Tâm Sanh-diệt.
III.
Trở về Tâm Chơn-như (tức là quán-sát các pháp, sanh tức vô sanh).
Ðoạn văn trên
đây nói về phần thứ ba tức là “Trở về Tâm Chơn-như”.
Hành-giả hãy quán-sát tấ cả các pháp: Bên trong là thân ngũ ấm (Sắc và Tâm), bên
ngoài là cảnh-giới sáu trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp) rốt-ráo đều vô niệm
(không vọng niệm, tức là chơn-như). Vì các pháp không rời Thể Chơn-tâm (Tâm
Chơn-như), nên Chơn-tâm đã vô niệm (không vọng), thì các pháp cũng vô niệm (không
vọng).
Chơn-tâm vì không có hình tướng, nên tìm khắp mười phương không thể thấy được nó.
Song vì vô minh vọng động, nên Tâm biến ra các pháp hữu hình (hữu niệm) như thân
và cảnh v.v… nhưng bản-thể Chơn-tâm vẫn thanh-tịnh không động (vô niệm). Cũng
như người bộ hành, vì lầm phương hướng nên chấp phương Ðông làm phương Tây; thật
ra phương hướng không thay-đổi.
Do vọng niệm sanh ra các pháp sanh-diệt, nên dứt trừ vọng niệm (quán vô niệm) thì
các pháp sanh-diệt kia tự trở về Tâm Chơn-như (vô niệm). Cũng như vì gió nên
có sóng động, nếu gió hết thì sóng kia tự trở lại tánh nước yên-lặng.
Nếu vô niệm (không vọng niệm) thì toàn vọng là chơn; nên quán vô niệm là con đường
tu chứng duy nhứt của các Phật Tổ.
Trong kinh Lăng-nghiêm Phật dạy: “… Bất tùy phân-biệt…” (không theo trần cảnh khởi
vọng niệm phân-biệt, tức là quán vô niệm) (Xem Ðại-cương kinh Lăng-nghiêm in lần
thứ III hoặc IV, bài thứ 11 trang 141 hàng 23 đến 28; và trang 118 hàng thứ 9 đến
19).
Tổ Ðạt-ma khi từ Ấn-độ mới đến Trung-hoa, đức Nhị-tổ thỉnh cầu Ngài dạy phương-pháp
an-tâm.
Tổ Ðạt-ma trả lời: “Ông hãy đem cái tâm đến đây, ta sẽ an cho”.
Ðức Nhị-tổ thưa rằng: “Con tìm tâm không thể được”.
Tổ Ðạt-ma dạy tiếp rằng: “Ta đã an tâm cho ông rồi”.
Ðức Nhị-tổ liền tỏ ngộ.
Ðức Lục-tổ Huệ-năng dạy: “…Bốn lai vô nhứt vật…” (từ xưa đến nay, không có
một vật) (1).
Ðây là những bằng chứng Phật và Tổ đều dạy cái bí-quyết tu-hành mau được thành Phật
là “vô niệm” (không vọng niệm).
Bởi thế nên, cũng ở nơi Luận này, về đoạn trước đã nói: “…Nếu lìa các vọng niệm
thì đặng nhập chơn-như…” (nhược ly ư niệm, danh vi đắc nhập).
(1)
Nguyên bài kệ:
Bồ-đề
bổn vô thọ
Tâm phi
minh-cảnh đài
Bổn lai
vô nhứt vật
Hà xứ
nhá trần ai.
Dịch nghĩa:
Bồ-đề không
phải cây
Tâm không phải
đài gương
Xưa nay không
phải vật
Nên không dính
bụi trần.