BÀI
THỨ MƯỜI HAI
PHẦN
GIẢI THÍCH
ÐỐI TRỊ CÁC CHẤP SAI LẦM
CHÁNH VĂN
Tất cả các chấp sai lầm (tà chấp), đều do Chấp-ngã và Chấp-pháp mà sanh; nếu rời
Chấp-ngã và Chấp-pháp thì không còn các chấp sai lầm.
I. CHẤP-NGÃ (chấp bản-ngã thật có).
Chúng phàm-phu
Chấp-ngã có 5 thứ:
- Chấp “Hư-không là Chơn-tánh của Như-lai”.
Vì phá chấp
của chúng-sanh nên trong kinh Phật nói: “Pháp thân của Như-lai rốt-ráo vắng-lặng,
cũng như hư-không”. Chúng phàm-phu nghe nói như thế, không hiểu, lại lầm chấp:
“Hư-không là chơn-tánh của Như-lai”.
Vì đối trị
chấp sai lầm này, nên phải giải-thích rằng: “Hư-không là pháp hư-dối, không
có thật-thể; do đối với sắc tướng mà thấy có hư-không; nếu không có sắc-tướng thì
cũng không có tướng hư-không. Nghĩa là từ hồi nào đến giờ, tất cả cảnh-giới
(sắc pháp) đều do vọng-tâm biến-hiện, không có pháp nào ngoài tâm; chúng-sanh không
biết, vọng chấp (biến-kế chấp) là thật có. Nếu vọng tâm hết, thì các cảnh-giới
cũng không còn. Lúc bấy giờ chỉ còn chơn-tâm hiện khắp tất cả. Ðó là
Pháp-thân quảng-đại thuộc về tâm-trí (tánh trí) của Như-lai, không phải như hư-không,
không có tri-giác.
LƯỢC GIẢI
Ðối trị chấp tà là phá-trừ các sự chấp-nhứt sai lầm. Các sự chấp-nhứt
sai lầm đều do Chấp ngã, Chấp pháp mà sanh. Nếu phá-trừ được Chấp ngã, Chấp
pháp thì các chấp sai lầm không còn.
Vì quan-niệm thân-tâm là thật, nên gọi là Chấp ngã; quan-niệm vũ-trụ vạn-vật là
thật, thì gọi là chấp pháp.
Chúng-sanh chấp Pháp-thân của Phật có hình-tướng như thế này, hoặc như thế kia v.v…
Vì muốn phá các chấp sai lầm ấy, nên Phật nói: “Pháp-thân của Phật rốt-ráo
vắng-lặng cũng như hư-không”.
Nghe trong kinh nói như vậy, chúng-sanh trở lại chấp: “Hư-không là Pháp-thân
của Như-lai”. Vì phá cái chấp sai lầm này, nên ngài Mã-minh giải-thích rằng:
“Hư-không là cái không thật-thể, do các sắc-tướng mà thấy có hư-không. Nếu
không có sắc-tướng thì cũng không có hư-không. Cả sắc-tướng và hư-không đều
do vọng tâm biến hiện; rồi chúng-sanh lầm chấp là thật có. Nếu vọng tâm hết
thì sắc tướng và hư-không cũng không còn. Lúc bấy giờ bản-thể chơn-tâm hiện
ra, rộng lớn bao-la và trùm khắp tất cả. Ðó là Pháp-thân thanh-tịnh của Như-lai.
Ðây thuộc về phần tâm-trí, không phải như hư-không, không có trí-giác.
CHÁNH VĂN
- Chấp “Chơn-như hay Niết-bàn, chỉ là không không, chẳng có chi hết”.
Vì phá vọng-chấp
của chúng-sanh, nên trong kinh Phật nói: “Các pháp thế-gian rốt-ráo không
có thật-thể; cho đến các pháp xuất-thế-gian, như Chơn-như hay Niết-bàn rốt-ráo không
có thật-thể; từ hồi nào đến giờ, nó không có sắc tướng”. Chúng phàm-phu nghe
nói như vậy không hiểu, trở lại chấp: “Chơn-như hay Niết-bàn là không có chi hết”.
Vì đối-trị
sự chấp sai lầm này, nên phải giải-thích rằng: “Chơn-như hay Pháp-thân của
Phật, chẳng phải không có tự thể; nó sẵn có và đầy-đủ vô-lượng công-đức”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn trên phá quan-niệm sai lầm, chấp “hư-không là chơn-tánh của Như-lai”; đoạn
này phá quan-niệm sai lầm cho rằng “Chơn-như hay Niết-bàn là cảnh-giới hư-vô ảo-tưởng,
không có chi hết”.
Chúng-sanh thường lầm-tưởng “Các pháp thật có”. Vi phá-trừ quan-niệm sai lầm
ấy, nên trong kinh Phật nói: “Các pháp thế-gian hư-giả không thật; cho đến
các pháp xuất-thế-gian như Chơn-như, Bồ-đề, Niết-bàn v.v… rốt-ráo cũng không có
thật-thể, vì không có các hình-tướng”. Chúng phàm-phu nghe nói như vậy không
hiểu, trở lại chấp: “Chơn-như hay Niết-bàn v.v… là cảnh-giới hư-vô ảo-tưởng, chẳng
có chi hết”.
Ðể đối trị sự chấp sai lầm này, nên ngài Mã-minh Bồ-tát giải-thích rằng: “Chơn-như,
Pháp-thân hay Bồ-đề, Niết-bàn, không phải là cảnh-giới ảo-tưởng hư-vô, không có
gì cả; mà nó sẵn có đầy-đủ vô-lượng đức-tánh, nhiều hơn số cát sông Hằng, như: thiện,
thường, lạc, ngã, tịnh, giải-thoát v.v…
CHÁNH VĂN
- Chấp “Như-lai tạng có các hình-tướng sai-khác như Sắc và Tâm v.v…”
Nghe trong
kinh Phật nói: “Như-lai tạng, không tăng không giảm, sẵn đủ tất cả các công-đức”;
chúng phàm-phu vì không hiểu nghĩa này, nên trở lại chấp: “Như-lai tạng có đủ các
hình-tướng sai khác, như sắc và tâm v.v…”
Ðể đối-trị
sự chấp sai lầm này, nên phải giải-thích rằng: “Căn-cứ về thể chơn-như thì
không có sắc tướng sai khác; còn theo tướng nhiễm-ô sanh-diệt, thì có các hình-tướng
sai khác”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này phá quan-niệm sai lầm cho rằng: “Chơn” đồng với “Vọng”.
Nghe trong kinh Phật nói: “Như-lai tạng, không tăng không giảm, sẵn đủ tất
cả đức tánh”; chúng phàm-phu không hiểu, trở lại chấp “Như-lai tạng cũng có các
hình-sắc sai khác”.
Ðể đối trị quan-niệm sai lầm này, ngài Mã-minh giải-thích rằng: “Thể chơn-như”
(Chơn-như môn) thì thanh-tịnh không có các hình-tướng sai khác; còn về “tướng sanh-diệt”
(Sanh-diệt môn) thì đủ các hình-tướng sai khác”.
CHÁNH VĂN
- Chấp “Trong Như-lai tạng thật có đủ các pháp sanh-tử nhiễm-ô”.
Nghe trong
kinh Phật nói: “Các pháp sanh-tử nhiễm-ô của thế-gian, đều do Như-lai tạng mà có;
tất cả các pháp đều không rời Chơn-như”; chúng phàm-phu không hiểu nghĩa này, lại
chấp: “Chính trong bản-thể Như-lai tạng, sẵn có tất cả các pháp sanh-tử nhiễm-ô
của thế-gian”.
Ðể đối trị
cái chấp sai lầm này, nên giải-thích rằng: “Từ vô-thỉ tới giờ, trong Như-lai
tạng, chỉ có các công-đức thanh-tịnh, nhiều hơn số cát sông Hằng. Các công-đức
này không lìa, không đoạn và cũng không khác với chơn-như; còn hằng-hà sa số các
pháp phiền-não nhiễm-ô kia, chỉ là hư-vọng, vốn không có thật-tánh. Bởi thế
nên từ hồi nào đến giờ, trong Như-lai tạng chưa từng thật có các pháp nhiễm-ô.
Nếu trong bản-thể Như-lai tạng (chơn) thật có các phiền-não nhiễm-ô, rồi hành-giả
phải diệt trừ các phiền-não nhiễm-ô, mới chứng được chơn-như thanh-tịnh, thì rất
vô lý.
LƯỢC GIẢI
Chúng phàm-phu nghe trong kinh Phật nói: “Các pháp sanh-tử nhiễm-ô đều do
Như-lai tạng mà có, các pháp không rời Chơn-như”; rồi họ chấp “Trong Như-lai tạng
hay Chơn-như, thật có sẵn các pháp sanh-tử nhiễm-ô”.
Ðể phá quan-niệm sai lầm này, nên ngài Mã-minh Bồ-tát giải-thích rằng: “Từ
hồi nào đến giờ, trong Như-lai tạng (chơn) chỉ có hằng-hà sa-số đức tánh thanh-tịnh,
các đức tánh này không rời chơn-như; còn các pháp sanh-tử nhiễm-ô, vì là hư-vọng,
không có thật thể, nên từ hồi nào đến giờ, không có ở trong Như-lai tạng”.
Như-lai tạng hay Chơn-như, dụ như “tâm người đương thức tỉnh”; sanh-tử nhiễm-ô,
dụ như “giấc ngủ mà có chiêm-bao”. Ðành rằng “cái ngủ chiêm-bao” là nương
nơi “tâm người thức tỉnh” mà có; song từ hồi nào đến giơò, trong “tâm người thức
tỉnh”, không bao giờ thật có chứa sẵn “cái ngủ chiêm-bao”. Bởi “cái ngủ chiêm-bao”
hư-vọng không thật, nên khi thức giấc rồi thì nó tự mất. Cũng thế, các pháp
sanh-tử nhiễm-ô, vì hư-vọng không thật, nên khi giác-ngộ rồi, nó không còn.
Nếu quan-niệm rằng: “Trong Như-lai tạng thật có sẵn các phiền-não nhiễm-ô; hành-giả
phải diệt-trừ hết các phiền-não nhiễm-ô, mới chứng được chơn-như thanh-tịnh”, thì
không phải. Cũng như nói “trong tâm người thức-tỉnh, thật có sẵn “cái ngủ
chiêm-bao”, phải diệt-trừ hết “cái ngủ chiêm-bao” rồi, mới được thức tỉnh”; nói
như thế rất là phi lý.
Phải biết, các phiền-não sanh-tử, chỉ là cái mê-vọng, không có thật-thể. Phật
đã dạy rằng: “Biết mình mê thì cái “mê” hết, cái “biết” đó không sanh mê trở lại”
(Giác mê mê diệt, giác bất sanh mê). Cũng như người khi biết mình dại, thì
không còn dại nữa. Lúc bấy giờ họ trở thành khôn; khi đã khôn rồi, cái “khôn”
đó không sanh dại trở lại nữa.
Nếu cái “dại” (mê) này thật có, thì khi biết khôn (giác) rồi, cái “dại” đó trốn
núp ở đâu? Cũng như “cái ngủ chiêm-bao” nếu thật có, thì khi tỉnh thức rồi
nó phải còn. Nhưng vì nó không còn, nên biết “cái ngủ chiêm-bao” (mê dại)
này không thật có.
Nếu nói “phải diệt trừ hết các pháp sanh-tử nhiễm-ô, mới chứng được chơn-như thanh-tịnh”,
thì cũng như nói “phải phá trừ cho hết “cái ngủ chiêm-bao” rồi, mời được sự thức
tỉnh”; nói như thế, đều phi lý.
Bởi thế nên từ hồi nào đến giờ, trong Như-lai tạng hay Chơn-như, không bao giờ thật
có pháp sanh-tử nhiễm-ô; cũng như trong “tâm người đang thức tỉnh”, không bao giờ
thật có “cái mê ngủ chiêm-bao” vậy.
CHÁNH VĂN
- Chấp “Chúng-sanh có thỉ, chư Phật có chung tận”.
Chúng phàm-phu
nghe trong kinh Phật nói: “Do Như-lai tạng mà có sanh-tử, do Như-lai tạng
mà đặng Niết-bàn”. Vì họ không hiểu, nên chấp “Chúng-sanh hữu thỉ (có đầu
tiên) và chư Phật chứng Niết-bàn, sẽ có ngày chung tận, rồi trở lại làm chúng-sanh”.
Ðể đối trị
các chấp sai lầm này, nên giải-thích rằng: Như-lai tạng (Chơn-như tại triền) và
vô-minh đều có từ vô thỉ (không có đầu tiên). Nếu nói chúng-sanh (vô-minh)
hữu thỉ (có sanh-khởi đầu tiên) là kinh của ngoại đạo nói (kinh Ðại-hữu), không
phải kinh Phật.
Lại nữa, Như-lai tạng không có chung tận; chư Phật chứng Niết-bàn là thể nhập (tương-ưng)
Như-lai tạng, nên cũng không có chung tận.
LƯỢC GIẢI
Chúng-sanh
nghe trong kinh Phật nói: “Do Như-lai tạng mà có sanh-tử, do Như-lai tạng mà chứng
Niết-bàn”; rồi họ suy luận và chấp rằng: vì do Như-lai tạng mà có sanh-tử (Vô-minh,
chúng-sanh); như thế thì chúng-sanh (sanh-tử, vô-minh) tất phải có sự bắt đầu sanh
khởi; (hữu thỉ) và do Như-lai tạng mà chứng Niết-bàn; vậy thì Niết-bàn cũng có sự
bắt đầu sanh khởi (hữu thỉ). Do đó người ta kết-luận: Chúng-sanh đã hữu thỉ
nên cũng hữu chung; Niết-bàn hữu thỉ nên cũng hữu chung. Bởi thế nên họ chấp
chư Phật chứng Niết-bàn rồi, có ngày cũng cùng tận, phải trở lại làm chúng-sanh.
Ðể đối trị
sự chấp sai lầm này, nên ngài Mã-minh Bồ-tát giải-thích, đại-ý rằng “Chơn-như và
vô-minh đồng thời có từ Vô thỉ”. Cũng như chất ngọt và chất chát đồng thời
có trong trái hồng. Song hành-giả khi chuyển phiền-não trở lại Bồ-đề, chuyển
sanh-tử trở lại Niết-bàn, thì lúc bấy giờ chúng-sanh không còn (chung tận), mà chỉ
còn chơn-như hay Phật. Cũng như khi trái hồng lớn chín, đổi hết chất chát
chỉ còn chất ngọt. Khi trái hồng đã chín ngọt rồi, thì không bao giờ trở lại
chát nữa. Cùng như khi đã thành Phật rồi, không bao giờ trở lại làm chúng-sanh
nữa.
Vậy nên biết,
vô-minh (chúng-sanh) vô thỉ mà hữu chung; Chơn-như (Phật) vô thỉ vô chung.
Kinh Phật thì
nói “chúng-sanh vô thỉ”; còn kinh Ðại-hữu của ngoại-đạo lại nói “chúng-sanh hữu-thỉ”.
CHÁNH VĂN
I. CHẤP-PHÁP (chấp thật có vũ-trụ vạn hữu).
Ðối với hàng
Nhị-thừa, vì độn căn chấp ngã, nên trong kinh, Phật nói: “Chỉ có năm ấm sanh-diệt,
không có thật ngã”. Nghe như thế, hạng này trở lại chấp “Thật có năm ấm sanh-diệt”
(chấp thật pháp), nên họ rất sợ khổ sanh-tử và cầu vui Niết-bàn.
Ðể đối trị
cái chấp sai lầm này, nên phải giải-thích rằng: “Tánh của năm ấm, từ hồi nào
đến giờ, vốn là Niết-bàn, không sanh và cũng không diệt”.
LƯỢC GIẢI
Năm ấm tức là sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Vì năm đám mây này che khuất
vừng trăng chơn-như nên gọi là “Ấm” (che).
Ðể phá trừ chấp ngã của hàng Nhị-thừa độn-căn, nên Phật nói: “chỉ có năm ấm
sanh-diệt, không có thật ngã”. Lúc bấy giờ hạng này không còn chấp ngã, mà
trở lại chấp pháp; nghĩa là chấp thật có năm ấm, thật có khổ sanh-tử và vui Niết-bàn.
Do đó, họ rất sợ sanh-tử và thích thú ở mãi nơi cảnh Niết-bàn.
Ðể phá trừ cái chấp thật pháp của Nhị-thừa, nên ngài Mã-minh Bồ-tát giải-thích,
đại-ý rằng “Tướng của các pháp không thật, tánh nó là Chơn-như, là Niết-bàn, xưa
nay không sanh nên cũng không diệt”. Vì các pháp không thật có, nên Bồ-tát
không sợ sanh-tử, mà thường qua lại sanh-tử để độ sanh và không yên vui ở mãi nơi
Niết-bàn”.
Nếu nói một cách đầy đủ, thì phải nói: “vô ngã và vô pháp”. Nhưng đây vì đối
với hàng Nhị-thừa, nên Phật chỉ mới nói “Năm ấm vô thường”, chứa chưa nói đến “sanh-tử
tức chơn-thường”.
CHÁNH VĂN
Lại nữa, nếu người rốt-ráo xa-lìa các vọng-chấp, thì mới biết rò các pháp nhiễm-tịnh
đều do đối đãi nhau mà thôi, thật ra không có cái tướng gì có thể kêu gọi được.
Bởi thế nên, từ hồi nào đến giờ, tất cả các pháp, không phải sắc, không phải tâm,
không phải trí, không phải thức, không phải hữu, không phải vô, rốt-ráo không có
tướng gì có thể gọi được. Song, sở-dĩ Phật có nói năng kêu gọi như thế này
hoặc như thế kia, là vì đức Như-lai khôn-khéo, phương-tiện tạm dùng lời nói để dẫn-dắt
chúng-sanh, mục-đích là làm cho chúng-sanh xa-lìa các vọng-niệm (ly niệm) trở về
chơn-như; nếu còn vọng-niệm thì tâm phải sanh-diệt, nên chắng nhập được trí Phật
(thật-trí: chơn-như).
LƯỢC GIẢI
Từ hồi nào đến giờ, tất cả các pháp, không phải sắc, không phải tâm, không phải
trí, không phải thức v.v… chỉ vì chúng-sanh vọng-chấp phân-biệt, so-sánh (biến-kế
chấp) đối đãi với nhau mà thành thế này hoặc thế kia, như đối với hữu gọi là vô,
đối với sắc gọi là tâm, đối với thức gọi là trí, đối với cao gọi là thấp, đối với
lớn gọi là nhỏ, đối vớ tốt gọi là xấu v.v… Nếu chúng-sanh rốt-ráo xa-lìa các
vọng chấp, thì thật không có một pháp gì có thể kêu gọi được. Lúc bấy giờ
hành-giả mới thấy rõ các pháp không thể kêu gọi (ly danh-tự tướng) không thể nói
năng luận bàn (ly ngôn thuyết tướng) hay suy-nghĩ được (ly tâm duyên tướng).
Chư Phật đã hoàn-toàn xa lìa các vọng-chấp, song còn gọi pháp khổ, pháp vui, nhiễm
tịnh, sanh-tử Niết-bàn v.v… là vì Phật phương-tiện tạm đặt ra những danh-từ kêu
gọi như thế, mục-đích là để dẫn-dắt chúng-sanh lìa các vọng niệm chấp trước, đặng
nhập vào chơn-như hay trí Phật. Khi chúng-sanh đã nhập chơn-như hay trí Phật
rồi, lúc bấy giờ cũng không còn danh-từ gì có thể kêu gọi được.
Bài này nói về phần đối trị các chấp sai lầm rồi, đến bài thứ 13, sẽ nói về hành-tướng
phát tâm đến đạo.