BÀI
THỨ SÁU
PHẦN
GIẢI THÍCH
NÓI VỀ NGHĨA “BẤT-GIÁC” (tiếp theo)
NÓI
VỀ “Ý” TƯƠNG-TỤC, có 5 thứ
CHÁNH VĂN
Trên đã nói “Tâm sanh-diệt”, (thứcA-lại-da), tiếp theo đây sẽ nói “cái “Ý” làm nhơn-duyên
sanh-diệt”.
Tất cả chúng-sanh đều từ nơi tâm (A-lại-da) mà sanh ra ý (mạt-na) và ý-thức (thức
thứ 6). Nghĩa là do thức A-lại-da có vô-minh bất-giác (nghiệp-tướng) nên sanh
ra Năng-kiến (chuyển-tướng) và Năng-hiện (hiện-tướng) rồi tiếp-tục sanh ra các niệm
(lục-thô), chấp lấy cảnh-giới v.v… gọi là “Ý”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói về sự quan-trọng của “ý”. Trong các nơi khác, khi nói đến “ý”
thì thường dùng để chỉ riêng cho thức Mạt-na, là thức sanh-diệt tương-tục thắng
hơn các thức. Nhưng chữ “ý” ở luận này là chỉ chung cho cả 8 thức; vì cả 8
thức đều có nghĩa “sanh-diệt tương-tục”.
Thức A-lại-da là gốc của sanh-diệt, thức Mạt-na làm nhơn-duyên cho sự sanh-diệt
tương-tục; còn ý-thức thì khỏi hoặc tạo nghiệp, làm cho chúng-sanh nhiều kiếp sanh-tử
không dứt.
CÁI “Ý” CÓ 5 THỨ
CHÁNH VĂN
Cái “Ý” này lại có 5 thứ: Nghiệp-thức (nghiệp-tướng), Chuyển-thức (chuyển-tướng),
Hiện-thức (hiện-tướng), Trí-thức (trí-tướng) và Tương-tục-thức (tương-tục-tướng).
1.
Nghiệp-thức là sự vô-minh bất-giác làm cho tâm vọng-động (tức là Tự-chứng-phần của
thức A-lại-da).
2.
Chuyển-thức là phần năng-phân-biệt (Kiến-phần của thức A-lại-da) do tâm vọng-động
chuyển sanh ra.
3.
Hiện-thức là sự hiện-bày của cảnh-giới ngũ trần bị phân-biệt (Tướng-phần của thức
A-lại-da). Cảnh-giới này không có trước sau; trong tất cả thời, mặc tình sanh-khởi,
thường hiện ở trước.
(2 thức này
thuộc về Tam-tế).
4.
Trí-thức là cái biết phân-biệt các pháp nhiễm tịnh.
5.
Tương-tục-thức là niệm niệm sanh-diệt tương-tục không gián-đoạn.
(2 thức này
thuộc về 2 món Thô trước, trong 6 món Thô).
Năm thức “ý” này, giữ gìn tất cả nghiệp lành dữ, từ quá-khứ vô-lượng kiếp về trước,
cho đến ngày nay cũng không mất (trì-chủng). Nó lại có công-năng làm cho thành-thục
tất cả quả-báo khổ vui về hiện-tại cũng như tương-lai, không sai mất (chấp thủ căn-thân
thế-giới và kiết-sanh tương-tục). Và nó có công-năng nhớ việc đã qua, nghĩ
những việc hiện-tại và suy-tính những việc chưa đến (vị-lai).\
Bởi thế nên ba cõi (Dục-giới, Sắc-giới và Vô-sắc-giới) đều hư-ngụy, duy tâm tạo
ra. Nếu rời tâm thì không có cảnh-giới sáu trần này (ba cõi).
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói về nghĩa chữ “ý”, là chỉ cho một dòng sanh-diệt tương-tục không gián-đoạn.
Từ vô-minh vọng-động, sanh ra 3 món Tế, là Nghiệp-tướng (nghiệp-thức), Chuyển-tướng
(chuyển-thức), Hiện-tướng (hiện-thức) và hai món Thô là Trí-tướng (trí-thức) và
Tương-tục-tướng (tương-tục-thức).
Năm cái “ý” này có công-năng giữ-gìn các chủng-tử thiện ác, quả-báo khổ vui hiện-tại
và vị-lai, làm cho không mất (đó là công-năng trì-chủng chấp-thọ thân căn thế-giới
và kiết-sanh tương-tục của thức A-đà-na); nhớ nghĩ những việc đã qua và lo tính
những điều chưa đến (đó là công-năng của thức thứ 6), và một dòng sanh-diệt, tiếp
tục từ trước đến sau không gián-đoạn, gọi đó là “ý”. Bởi thế nên chữ “ý” này
là chỉ chung cho cả 8 thức.
Tóm lại, từ vô-minh vọng-động, sanh ra thức A-lại-da. Từ thức A-lại-da lại
tiếp-tục sanh ra 7 thức trước; rồi cùng nhau là nhơn làm duyên, lại thành ra một
dòng sóng thức, sanh-diệt tương-tục vô-tận, gọi đó là “ý”. Cũng vì rõ nghĩa
này, nên Cổ-nhơn làm bài thơ có câu rằng: “…Nhứt ba tài động vạn ba tùy…”
(một lượng sóng vừa nổi lên, thì trăm ngàn lượng sóng đều nổi theo).
Nào ba cõi, nào 6 trần đều từ 8 thức này biến-hiện. Bởi thế nên các pháp đều
hư dối, duy tâm tạo ra; nếu rời 8 thức, thì các cảnh-giới đều không còn.
CHÁNH VĂN
Nghĩa này thế nào? - Do tất cả các pháp đều từ vọng-tâm của chúng-sanh
mà sanh-khởi; nên tất cả sự phân-biệt tức là phân-biệt trong tự tâm. Nhưng
tâm không có hình-tướng gì cả, nên không thể thấy được nó. Phải biết, tất
cả cảnh-giới ở thế-gian, đều do vô-minh vọng-tâm của chúng-sanh mà được tồn-tại,
nên tất cả các pháp, đều không có thật-thể, mà chỉ là vọng-tâm huyễn hiện, như bóng
trong gương.
Nếu vọng-tâm sanh khởi, thì các pháp đều sanh khởi; vọng-tâm diệt đi thì các pháp
đều diệt. (Tâm sanh tắc chủng chủng pháp sanh, tâm diệt tắc chủng chủng pháp
diệt).
LƯỢC GIẢI
Tất cả các pháp đều do tâm của chúng-sanh sanh ra, nên chúng-sanh phân-biệt cá pháp,
tức là phân-biệt ở nơi tự tâm. Kinh Lăng-nghiêm chép: “Tự tâm thủ tự tâm,
phi huyễn thành huyễn pháp” (tự tâm chúng-sanh trở lại chấp lấy tự tâm chúng-sanh;
tâm không phải huyễn mà trở lại thành pháp hư huyễn).
Tất cả các pháp đều không thật có, chỉ nương nơi tâm mà tồn-tại, như hoa trong gương,
như trăng dưới. Nếu tâm động thì các pháp sanh, tâm tịnh thì các pháp diệt.
Trong Khế kinh chép: “Tâm sanh tắc chủng chủng pháp sanh, tâm diệt tắc chủng
chủng pháp diệt” là vậy. Tổ Qui-sơn nói: “Nhứt tâm không sanh thì muôn
pháp đều dứt” (nhứt tâm bất sanh vạn pháp cu tức). Bởi thế nên đoạn trước
nói “Người quán vô-niệm (không vọng-niệm) thì hướng về trí Phật”.
Ðoạn này đã nói về “ý tương-tục” rồi, tiếp theo dưới đây sẽ nói đến ý-thức.
NÓI VỀ “Ý-THỨC”
CHÁNH VĂN
Trên đã nói về “ý” rồi, tiếp theo đây nói về “ý-thức”. Ý-thức tức là “thức
tương-tục”. Bởi chúng phàm-phu chấp-trước rất nặng-nề nơi Ngã và Ngã-sở, nên
khởi ra các món vọng-chấp, leo chuyền theo sự vật, phân-biệt cảnh-giới sáu trần,
gọi đó là “ý-thức” (thức thứ sáu). Cũng gọi là “phân-ly thức”, hay gọi “phân-biệt-sự
thức”. Thức này nương nơi kiến (kiến-hoặc) và ái (tư-hoặc) phiền-não mà được
nuôi lớn.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói về “ý-thức”.
So với 5 món “ý” nói trên, thì ý-thức này thuộc về món thứ năm là “Tương-tục thức”;
trong Lục-thô nó thuộc về Thô thứ hai là “Tương-tục tướng”; trong 8 thức nó thuộc
về thức thứ 6.
-
Bởi thức này, niệm niệm tương-tục, chấp Ngã và Ngã-sở, leo chuyền theo các trần-cảnh,
phân-biệt các sự vật, vọng-chấp đủ điều, nên gọi là “Thức tương-tục”.
-
Bởi thức này phân-biệt 5 trần-cảnh (Sắc, Thanh, Hương, Vị và Xúc) mỗi cảnh riêng
nhau, nên gọi là “Phân-ly thức”.
-
Bởi thức này phân-biệt tất cả sự vật, nên cũng gọi là “Phân-biệt-sự thức”.
-
Lại nữa, thức này nhờ 2 món phiền-não là “Kiến” và “Ái” mà được nuôi lớn.
“Kiến” tức là Kiến-hoặc, thuộc về phân-biệt hoặc. “Ái” tức là Tư-hoặc, thuộc
về Cu-sanh hoặc. Do hai món phiền-não này, nên ý-thức mới khởi hoặc tạo nghiệp,
quanh-quẩn trong sanh-tử luân-hồi.
Trong “Môn sanh-diệt” có 2 phần, trên đã nói về phần thuận dòng vô-minh (lưu-chuyển),
sanh ra các pháp sanh tử tạp-nhiễm; sau đây sẽ nói, chính nơi pháp tạp-nhiễm lưu-chuyển
đó, để chỉ sự trở lại thanh-tịnh (hoàn-tịnh) tùy theo trình-độ của người, hoặc mau
hay chậm không đồng.
CẢNH-GIỚI NÀY DUY PHẬT MỚI BIẾT ÐƯỢC RỐT-RÁO
CHÁNH VĂN
Do vô-minh huân-tập sanh ra thức. Cảnh-giới này, chúng phàm-phu không thể
biết được; dù cho hàng Nhị-thừa dùng trí-huệ quán-sát cũng không thể biết được;
các vị Bồ-tát từ Sơ-tín đến Tam-hiền (Trụ, Hạnh, Hướng) phát-tâm quán-sát, chỉ biết
được chút ít; bực Thập-địa Bồ-tát (Pháp-thân Bồ-tát) cũng chỉ biết được từng phần;
cho đến Ðẳng-giác Bồ-tát cũng không thể biết hết; duy có Phật mới biết được rốt-ráo.
Tại sao vậy? - Vì tâm này từ hồi nào đến giờ, tánh nó vẫn thanh-tịnh, không
có vô-minh; song bị vô-minh làm nhiễm-ô (bất biến tùy duyên). Tuy bị nhiễm-ô,
mà tâm này vẫn không biến-đổi (tùy duyên bất biến), vì thế nên rất khó biết.
Bởi thế nên chỉ có Phật mới có thể biết được cảnh-giới này.
Tóm lại, chơn-tâm (tâm-tánh) vì thường không vọng-niệm, nên gọi là “bất biến” (chơn-như).
Song chúng-sanh vì không ngộ-nhập được chơn-tâm (nhứt pháp-giới) này, lại sanh vọng-niệm,
nên gọi là “vô-minh”.
LƯỢC GIẢI
Người đang chiêm-bao, không bao giờ biết được chiêm-bao; phải thức giấc rồi mới
biết đó là cảnh chiêm-bao. Chúng-sanh đang ở trong vòng vô-minh vọng-thức,
không thể biết được vô-minh vọng-thức; bao giờ giác-ngộ hoàn-toàn, mới biết được
rốt-ráo cảnh-giới của vô-minh vọng-thức.
Do vô-minh huân-tập vào chơn-như, nên chơn-vọng hòa-hiệp biến thành thức A-lại-da.
Chúng phàm-phu vì đang ở trong vòng thức biến, nên không bao giờ biết được cảnh-giới
thức-biến. Hàng Nhị-thừa tuy dùng trí-huệ quán-sát, phá được ngã chấp; nhưng
mây pháp-chấp hãy còn dày bịt và che tối chơn-tâm, nên cũng không thể thấy được
cảnh-giới ấy. Các bực Bồ-tát ở vị Tam-hiền, mới phá được đôi phần phân-biệt
pháp-chấp, nên chỉ biết được chút ít về cảnh-giới này. Ðến bực Thập-địa Bồ-tát,
hễ phá được một phần vô-minh, chứng được một phần Pháp-thân, thì thấy được một phần
của cảnh-giới này, và cứ tuần-tự như thế, cho đến khi nào phá được 10 phần vô-minh,
thì chứng 10 phần pháp-thân và biết được cả 10 phần của cảnh-giới này. (Thập-địa
Bồ-tát, do phá vô-minh, chứng được pháp-thân, nên cũng gọi là “Pháp-thân Bồ-tát”).
Bực Ðẳng-giác Bồ-tát, vì còn vi-tế vô-minh, nên đối với cảnh-giới này, biết cũng
chưa tường-tận. Ðến quả vị Phật, do phá vô-minh đã sạch hết, nên mới hoàn-toàn
biết được cảnh-giới này; cũng như người đã hoàn-toàn thức-tỉnh, mới biết được rốt-ráo
cảnh mê-mộng.
Trên đã nói nhơn-duyên trở lại bản tâm thanh-tịnh rồi, dưới đây sẽ lược nói đến
địa-vị nào, mới đoạn được hoặc gi, để trở lại bản tâm thanh-tịnh.