BÀI
THỨ BẢY
PHẦN
GIẢI THÍCH
NÓI VỀ NGHĨA “BẤT-GIÁC” (tiếp theo)
NÓI
VỀ TÂM NHIỄM-Ô
CHÁNH VĂN
Tâm nhiễm-ô này (kể từ Thô đến Tế) có 6 lớp:
1.
Nhiễm-ô về chấp trước (chấp tương-ưng nhiễm, tức là hai món Thô : chấp-thủ tướng
và kế-danh-tự tướng).
Hành-giả phải đến quả Nhị-thừa hay vị Thập-tín, mới trừ được món nhiễm-ô này.
2.
Nhiễm-ô bất đoạn (Bất đoạn tương-ưng nhiễm, tức là món Thô về tương-tục tướng).
Hành-giả từ địa-vị Thập-tín đến địa-vị Thập-hồi-hướng, phương-tiện tu-hành, lần
lần xả bỏ, khi đến Sơ-địa (Tịnh-tâm địa) mới hoàn-toàn xa-lìa được món nhiễm-ô này.
3.
Nhiễm-ô về trí phân-biệt (Phân-biệt trí tương-ưng nhiễm, tức là món Thô về Trí tướng).
Hành-giả phải từ Nhị-địa (Cụ-giới địa) lần lần diệt trừ, cho đến Thất-địa (Vô-tướng
phương-tiện địa) mới hoàn-toàn xa lìa nhiễm-ô này.
4.
Nhiễm-ô về cảnh-sắc (Hiện sắc bất tương-ưng nhiễm, tức là món Tế về Hiện tướng).
Hành-giả tu-hành phải đến Bát-địa (Sắc tự-tại địa) mới xa lìa được món nhiễm-ô này.
5.
Nhiễm-ô về năng phân-biệt (năng-kiến-tâm bất tương-ưng nhiễm, tức là món Tế về Kiến-tướng).
Hành-giả tu-hành phải đến Cửu-địa, mới xa lìa được món nhiễm-ô này.
6.
Nhiễm-ô về nghiệp (Căn-bản-nghiệp bất tương-ưng nhiễm, tức là món Tế về Nghiệp-tướng).
Hành-giả từ Thập-địa lên Ðẳng-giác Bồ-tát và phải đến quả vị Phật, mới có thể diệt-trừ
món nhiễm-ô này.
Tóm lại, vì không ngộ được chơn-tâm (bất đạt nhứt pháp-giới nghĩa) nên sanh ra nhiều
lớp nhiễm-ô (Tam-tế, Lục-thô). Muốn diệt-trừ các nhiễm-ô này, hành-giả phải
trải qua nhiều địa-vị: Bắt đầu từ địa-vị Thập-tín để tâm quán-sát và học tập đoạn
trừ tâm nhiễm-ô. Qua Tam-hiền rồi vào Thập-địa, tùy mỗi địa-vị, diệt-trừ mỗi
phần tâm nhiễm-ô (vọng hoặc); đến quả-vị Phật mới diệt hoàn-toàn rốt-ráo.
LƯỢC GIẢI
Vì không ngộ được chơn-tâm, nên sanh ra trùng trùng mê-vọng. Các lớp mê-vọng
tuy nhiều, nhưng đại-lược chia làm 6 lớp, từ Thô đến Tế.
1. Chấp
tương-ưng nhiễm (nhiễm-ô về sự chấp trước) tức là hai món Thô thứ ba và thứ tư (chấp
thủ tướng và kế danh tự tướng) trong 6 món Thô. Hành-giả tu-hành phải đến
Nhị-thừa hay Thập-tín mới đoạn-trư được vọng-nhiễm này.
2. Bất
đoạn tương-ưng nhiễm (nhiễm-ô về bất đoạn) tức là món Thô thứ hai (tương-tục tướng)
trong 6 món Thô. Hành-giả tu-hành từ địa-vị Tam-hiền đoạn trừ lần lần cho
đến Sơ-địa mới trừ hết lớp vọng-niệm này.
3. Phân-biệt
trí tương-ưng nhiễm (nhiễm-ô về phân-biệt) tức là món Thô thứ nhứt (trí tướng) tron
g6 món Thô. Hành-giả tu-hành từ Nhị-điạ cho đến Thất-địa, mới trừ được lớp
vọng-nhiễm này.
4. Hiện
sắc bất tương-ưng nhiễm (nhiễm-ô về cảnh-giới) tức là món Tế thứ ba (hiện tướng)
trong ba món Tế. Hành-giả tu-hành đến Bát-địa mới đoạn được lớp vọng-nhiễm
này.
5. Năng
kiến tâm bất tương-ưng nhiễm (nhiễm-ô về năng phân-biệt) tức là món Tế thứ hai (kiến-tướng)
trong ba món Tế. Hành-giả tu-hành, phải đến Cửu-địa, mới đoạn được lớp vọng-nhiễm
này.
6. Căn-bản
nghiệp bất tương-ưng nhiễm (nhiễm-ô về nghiệp) tức là món Tế thứ nhứt (Vô-minh nghiệp-tướng)
trong ba món Tế. Hành-giả tu-hành khi sắp chứng quả Phật, mới đoạn trừ được
lớp vọng-nhiễm rất vi-tế này.
Tóm lại, vì vô-minh vọng-nhiễm chồng-chất nhiều lớp từ nhiều đời nhiều kiếp, nên
Hành-giả phải trải qua nhiều giai-đoạn, nhiều địa-vị để phá trừ. Phá một lớp
vô-minh, thì Hành-giả chứng lên được một địa-vị. Như thế, bắt đầu từ phàm-phu,
tu đến quả vị Phật. Hành-giả phải trải qua thời-gian là ba lần vô số kiếp
(A-tăng-kỳ kiếp) và qua 55 địa vị, mới đoạn mê-hoặc (vô-minh) được hoàn-toàn và
chứng được rốt-ráo quả Phật.
CHÁNH VĂN
Sao gọi là “tương-ưng” (3 món nhiễm về tương-ưng)? - Vì Tâm-vương, Tâm-sở
khác nhau (tâm niệm, pháp dị) và tánh-chất nhiễm-ô của cảnh bị duyên không đồng;
song Tâm-vương khi duyên cảnh nào thì Tâm-sở cũng ưng-thuận duyên theo cảnh đó,
nên gọi là “tương-ưng”.
Sao gọi là “bất tương-ưng” (3 món nhiễm về bất tương-ưng)? - Vì Tâm
mới vừa bất-giác vọng-động, chưa phân ra căn cảnh hay Tâm-vương, Tâm-sở, nên gọi
là “bất tương-ưng”.
LƯỢC GIẢI
Trong 6 món nhiễm-ô này, sở-dĩ 3 món đầu (chấp-tương-ưng nhiễm, bất-đoạn tương-ưng
nhiễm và phân-biệt trí tương-ưng nhiễm) đều gọi là “tương-ưng”, là vì chúng nó thô-phù,
lại chia ra 2 phần rất rõ-rệt (căn, cảnh; Tâm-vương, Tâm-sở) và có sự hòa-hiệp nhau
(tương-ưng).
Còn ba món nhiễm-ô sau (Hiện-sắc bất tương-ưng nhiễm, Năng-kiến-tâm bất-tương-ưng
nhiễm và Căn-bản nghiệp bất tương-ưng nhiễm) lại gọi là “Bất tương-ưng”; là vì chúng
nó rất vi-tế, còn ở trong vòng trừu-tượng, chưa phân Năng, Sở, Tâm, Cảnh, nên chẳng
có sự hợp nhau.
TÂM NHIỄM-Ô VÀ VÔ-MINH KHÁC NHAU THẾ NÀO?
CHÁNH VĂN
-
Tâm nhiễm-ô (6 thứ) và vô-minh (bất-giác) khác nhau thế nào?
-
Tâm nhiễm-ô là phiền-não chướng (phiền-não ngại) làm chướng-ngại căn-bản-trí (vô
phân-biệt trí) duyên Chơn-như.
-
Vô-minh là sở-tri chướng (trí ngại) làm chướng-ngại hậu-đắc-trí (tự-nhiên nghiệp
trí) duyên các pháp sai-biệt của thế-gian.
-
Tại sao tâm nhiễm-ô sanh ra Năng-căn-bản trí? - Vì tâm nhiễm-ô sanh
ra Năng-kiến-tướng (kiến-phần) và Năng-hiện-tướng (tướng phần) rồi vọng sanh ra
chấp-thủ cảnh-giới (thuộc về Lục-thô), nên trái với tánh chơn-như bình-đẳng.
-
Tại sao vô-minh (bất-giác) lại chướng-ngại Hậu-đắc-trí (sai biệt trí)? -
Vì các pháp thường tịnh, không có khởi động; còn vô-minh thì bất-giác vọng-động,
nên trái với tánh thường tịnh của các pháp. Bởi thế nên không thể tùy thuận
biết hết các cảnh-giới thế-gian.
LƯỢC GIẢI
Vô-minh và tâm nhiễm-ô khác nhau thế nào? - Từ vô-minh sanh ra tâm nhiễm-ô
(Tam-tế, Lục-thô) nên vô-minh là gốc, mà tâm nhiễm-ô là sự sai-biệt của vô-minh.
Vô-minh thuộc về mê “Lý”, tức là Sở-tri-chướng, làm chướng-ngại Hậu-đắc-trí, cũng
gọi là Sai-biệt-trí (trí này phân-biệt các pháp sai-biệt thế-gian).
Tâm nhiễm-ô thuộc về mê “Sự”, tức là phiền-não chướng, làm chướng ngại Căn-bản-trí,
cũng gọi là Vô phân-biệt trí (trí này duyên chơn-như).
Tại sao phiền-não (tâm nhiễm-ô) làm chướng-ngại Căn-bản-trí, còn Sở-tri (vô-minh)
lại chướng-ngại Hậu-đắc-trí? - Tánh chơn-như bình-đẳng, không có năng
sở bỉ thử, nên phải dùng Căn-bản-trí (vô phân-biệt trí) mới duyên được Chơn-như.
Song vì phiền-não làm tâm nhiễm-ô lại chao-động, có năng sở bỉ thử, ngàn sai muôn
khác, trái với chơn-như bình-đẳng, nên làm chướng-ngại “Vô phân-biệt trí” (Căn-bản
trí).
Các pháp thế-gian không rời chơn-như; và chơn-như đã thanh-tịnh nên các pháp thế-gian
cũng phải thanh-tịnh. Song vì vô-minh bất-giác, trái với tánh thanh-tịnh của
các pháp nên không thật biết được các pháp. Bởi thế nên vô-minh (sở-tri chướng)
làm chướng-ngại Sai-biệt trí (Hậu-đắc trí).
Ðã nói nhơn-duyên sanh diệt rồi, tiếp theo đây sẽ nói tướng sanh diệt.
BA TƯỚNG NHIỄM-Ô SANH DIỆT
CHÁNH VĂN
Lại nữa, tướng nhiễm-ô sanh-diệt, có 3 thứ:
1.
Tướng sanh-diệt thô (chấp-thủ tướng và kế danh-tự tướng), đây là cảnh-giới mà địa-vị
Tam-hiền (phàm-phu) biết.
2.
Tướng sanh-diệt vừa Thô vừa Tế (tức là 2 món Thô đầu: Trí-tướng, Tương-tục-tướng
và 2 món Tế sau: Chuyển-tướng, Hiện-tướng), đây là cảnh-giới mà Bồ-tát (từ Sơ-địa
đến Ðẳng-giác) biết.
3.
Tướng sanh-diệt Vi-tế (tức là món Tế đầu tiên: Vô-minh nghiệp-chướng) đây là cảnh-giới
chỉ có Phật mới biết.
Ba tướng nhiễm-ô
sanh-diệt này, đầu do vô-minh huân-tập mà sanh. Nghĩa là do vô-minh bất-giác
làm nhơn và cảnh-giới hư-vọng làm duyên, mới sanh ra các tướng nhiễm-ô sanh-diệt.
Bởi thế nên,
nhơn (vô-minh) diệt, thì duyên (cảnh-giới) diệt. Nếu vô-minh (nhơn) diệt,
thì Tam-tế diệt (bất tương-ưng tâm diệt), và nếu cảnh-giới (duyên) diệt, thì Lục-thô
diệt (tương-ưng tâm diệt).
LƯỢC GIẢI
Tướng nhiễm-ô sanh-diệt có Thô và Tế, tức là Lục-thô và Tam-tế. Hàng Tam-hiền
(Trụ, Hành, Hướng) chưa đặng Thánh-vị, nên đều gọi là phàm-phu. Hàng phàm-phu
(Tam-hiền) chỉ biết hành-tướng của hai món Thô thứ ba và thứ tư. Bồ-tát từ
Sơ-địa đến Ðẳng-giác thì biết được hành-tướng của 2 món Thô trước (thứ nhứt và thứ
nhì) và 2 món Tế sau (Chuyển-tướng và Hiện-tướng). Duy Phật mới biết được
hành-tướng của món Vi-tế thứ nhứt là “Vô-minh nghiệp tướng”. Các tướng sanh-diệt
Thô, Tế này, đều do vô-minh huân-tập mà có. Nghĩa là do vô-minh bất-giác làm
nhơn, sanh ra 3 món Vi-tế (Nghiệp-tướng, Chuyển-tướng, và Hiện-tướng); rồi do cảnh-giới
(Hiện-tướng) làm duyên, sanh ra 6 món Thô.
Bởi thế nên vô-minh (nhơn) diệt, thì cảnh-giới (duyên) diệt. Nếu vô-minh diệt
thì Tam-tế diệt; và nếu cảnh-giới (Hiện tướng) diệt thì Lục-thô cũng diệt.
VẤN ÐÁP ÐỂ QUYẾT NGHI
CHÁNH VĂN
Hỏi: Nếu tâm này (tâm nhiễm-ô) diệt, thì lấy gì để tiếp-tục tu-hành?
Và nếu tâm này còn tương-tục, thì làm sao được thành Phật?
Ðáp: Chỉ diệt cái “Vọng-tướng” của tâm, chớ không phải diệt cái “Chơn-thể”
của tâm. Cũng như vì gió nên nước nổi sóng. Nếu gió đứng thì sóng lặng,
chứ nước không diệt.
Cũng thế, vì vô-minh (gió) mà tâm-thể (nước) sanh ra vọng-tưởng (sóng). Nếu
vô-minh (si-mê) diệt thì vọng-tướng của tâm cũng diệt, chớ tâm-trí (tâm-thể) không
diệt.
LƯỢC GIẢI
Vì đoạn trước nói “Nếu Nhơn diệt, thì tâm bất tương-ưng diệt; còn Duyên diệt, thì
tâm tương-ưng diệt”, nên đoạn này mới có câu hỏi: “Nếu tâm này diệt, thì lấy cái
gì để tiếp-tục tu-hành v.v…”
Ðại-ý trong lời đáp: Tâm có hai phần, chơn-thể và vọng-tướng.
Tâm chơn-thể như nước; tâm vọng-tướng như sóng. Nước vì gió mà có sóng, nên
khi gió hết thì sóng lặng, chứ nước không diệt.
Cũng thế, vì gió vô-minh làm chao-động, nên nước tâm-thể nổi lên các sóng vọng-thức,
rồi sanh diệt tương-tục. Khi gió vô-minh hết, thì sóng vọng-thức lặng, chứ
nước tâm-thể không diệt.
Trên đây nói hai danh-từ: Tâm-thể và Tâm-trí, giới nghĩa khác nhau. Nói “Tâm-thể”
là chỉ chung cho cả nhiễm tịnh, phàm thánh đều có Tâm-thể. Còn nói “Tâm-trí”
là chỉ riêng về phần “Tịnh” của Tâm-thể khi đã rời nhiễm, và đặng thành thánh quả.
Trên đã nói phần “nhiễm tịnh sanh diệt, sanh ra tất cả pháp”, tiếp theo đây sẽ nói
“nhiễm tịnh huân tập nhau”, để chỉ rõ các pháp sanh khởi không dứt.