BÀI THỨ NĂM
PHẦN
GIẢI THÍCH
NÓI VỀ NGHĨA “BẤT-GIÁC”
CHÁNH VĂN
Do không thật biết pháp “Chơn-như” nên tâm bất-giác (mê) nổi lên, liền khởi vọng-niệm
(sanh-tướng vô-minh). Song vọng-niệm vì là không có thật thể, nên chẳng rời
Bản-giác.
Thí như người lầm phương-hướng; vì có phương-hướng nên mới lầm, nếu không có phương-hướng
thì không có lầm.
Chúng-sanh cũng thế, do có “Giác” nên mới có “Mê”; nếu không có “Giác” thì cũng
không có “Mê” (bất-giác).
Song chúng-sanh cũng nhờ có “Tâm vọng-tưởng bất-giác” này, nên mới biết phân-biệt
danh-từ và nghĩa-lý của các pháp. Và cũng nhờ thế mà chư Phật mới có thể vì
chúng-sanh nói ra “Chơn-giác” (tánh Phật). Nếu lìa “Tâm bất-giác” thì cũng
không thể chỉ bày cái “Chơn-giác” được (dụ như lìa sóng không có nước).
LƯỢC GIẢI
Chúng-sanh vì không ngộ được Phật-tánh (bản-giác) nên gọi là mê (bất-giác).
Song cái “mê” này không có thật-thể, chỉ lấy Phật-tánh làm thể, nên không rời Phật-tánh
(bản-giác) được. Cũng như người lầm đường, do có con đường nên mới có lầm,
nếu không có con đường thì cũng không có sự lầm lạc. Bởi thế nên, nếu rời
Phật-tánh (bản-giác) thì cũng không có cái mê (bất-giác). Cũng như bỏ sóng,
không có nước.
Song, cũng nhờ có cái mê-vọng (bất-giác) này, nên chúng-sanh mới biết phân-biệt
các pháp chơn vọng, thánh phàm và nhàm chán cảnh khổ sanh-tử, ham-mộ thú vui “Niết-bàn”.
Và cũng nhờ chúng-sanh có biết phân-biệt, nên chư Phật mới có thể thuyết-pháp giảng
dạy, chỉ bày Phật-tánh (chơn-giác). Nếu không có tâm mê-vọng bất-giác phân-biệt
của chúng-sanh, thì Phật cũng không làm sao chỉ bày Phật-tánh (chơn-giác) cho chúng-sanh
được.
Ðọc qua đoạn văn này, chúng ta nên lưu-ý đến câu: “Vì không ngộ được Phật-tánh,
nên gọi là mê” hay đổi lại cách nói “Tại sao có dại? – Vì chưa khôn vậy”.
Vậy thì cái mê dại (vô-minh) này, sẵn có từ hồi nào đến giờ; vì từ hồi nào đến giờ,
chúng-sanh chưa từng ngộ được Phật-tánh.
Nói tóm lại, chơn-như với vô-minh đồng thời có, không phải chơn-như có trước, vô-minh
có sau. Khi chơn-như (Phật-tánh) hiện, thì vô-minh mất; cũng như khi “khôn”
rồi, thì “dại” tự hết.
GIẢI DANH-TỪ
“Bất-giác”: Không biết. Thật
ra không phải là không biết; vẫn có biết, song cái “biết” ấy hư-vọng, chẳng chơn-thật,
nên cũng gọi là “vọng-niệm” hay “vô-minh” v.v…
“Không thật biết”: Chúng-sanh
vẫn biết được chơn-như hay Phật tánh; song chỉ biết suông trên văn tự, do ý-thức
phân-biệt hư dối mà thôi; chứ không biết đúng như thật.
Ðoạn này nói vền căn-bản vô-minh (bất-giác), tiếp sau đây sẽ nói đến chi-mạt vô-minh
(tam-tế lục-thô).
I. NÓI VỀ TAM-TẾ
CHÁNH VĂN
Và, do “Bất-giác” (căn-bản vô-minh) nên sanh ra ba tướng rất vi-tế (tam-tế: chi-mạt
vô-minh); ba tướng vi-té này không rời “Bất-giác”.
1.
Tướng nghiệp vô-minh (nghiệp tướng).
Vì “Bất-giác” (hoặc) cho nên tâm động, gọi đó là “Nghiệp”. Bởi có nghiệp (nhơn)
nên có “Khổ” (quả). Trái lại, nếu “Giác” (không có hoặc) thì tâm không động
(không có nghiệp). Vì không động (nghiệp-nhơn) nên cũng không khổ (quả).
2.
Tướng năng-kiến (chuyển-tướng tứclà kiến-phần).
Vì có “Ðộng” (nghiệp tướng) cho nên sanh ra “Năng phân-biệt” (năng-kiến).
Nếu không “Ðộng” thì không có “Năng phân-biệt” (không có nghiệp tướng thì cũng không
có chuyển tướng).
3.
Tướng cảnh-giới (hiện-tướng tức là tướng-phần).
Vì có Năng phân-biệt (kiến-phần)
nên cảnh bị phân-biệt (tướng-phần) vọng hiện ra. Bởi thế nên rời “Năng phân-biệt”
(kiến-phần) thì cũng không có cảnh bị phân-biệt (nghĩa là nếu không có chuyển-tướng
thì cũng không có hiện-tướng).
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói: Vô-minh sanh ra 3 tướng rất vi-tế: Nghiệp, Chuyển và Hiện; ba
tướng này không rời vô-minh.
1. Vì vô-minh (bất-giác) cho nên tâm động, mà động tức là “Nghiệp”.
Ðó là tướng vi-tế thứ nhứt, gọi là “Tướng nghiệp vô-minh”, cũng gọi là “Hoặc, Nghiệp”;
bên Duy-thức-tôn gọi là “Tự-chứng-phần” của thức A-lại-da.
Do “Hoặc” (vô-minh) nên tạo “Nghiệp” (tâm động); bởi có “nghiệp” nên phải thọ “quả
khổ”. Trái lại, nếu giác-ngộ không mê-hoặc (vô-minh) thì không tạo nghiệp
(vọng động); không tạo nghiệp nên chẳng có quả khổ.
Tất cả quả khổ, không ngoài 2 món sanh-tử: Phàm-phu thì bị khổ “Phần đoạn
sanh-tử”: Tiểu-thánh lại bị khổ “Biến-dịch sanh-tử”. Song hai món quả khổ
này, đều do “động-niệm” (nghiệp) mà sanh ra. Nếu không “động niệm” thì hai
món khổ sanh-tử này cũng không còn. Bởi thế nên Khế-kinh chép: “Người
“quán vô-niệm” tức là hướng về trí Phật” (không vọng-niệm thì chơn-tâm hiện).
2. Vì tâm động (nghiệp tướng) cho nên mới cho phân-biệt. Ðó là tướng
vi-tế thứ hai, gọi là “tướng năng-kiến” (phần năng phân-biệt), cũng gọi là “Chuyển
tướng”; bên Duy-thức-tôn gọi là “Kiến-phần” của thức A-lại-da. Nếu tâm không
vọng-động, thì cũng không do đâu mà phát-sanh ra phân-biệt được. Nghĩa là:
Nếu không có “Nghiệp tướng” thì cũng không có “Chuyển tướng”; hay nói cách khác:
nếu không có “Tự-chứng-phần” thì cũng không có “Kiến-phần”.
3. Vì có tâm năng-phân-biệt, nên mới vọng hiện ra cảnh-giới bị phân-biệt.
Ðó là tướng vi-tế thứ ba, gọi là “Tướng cảnh-giới” (phần bị phân-biệt) cũng gọi
là “Hiện tướng”; bên Duy-thức-tôn gọi là “Tướng phần” của thức A-lại-da. Bởi
tâm và cảnh không rời nhau, nên lìa tâm năng-phân-biệt thì không có cảnh-giới bị
phân-biệt. Nghĩa là: rời “Chuyển tướng” thì không có “Hiện tướng”; hay nói
cách khác; rời “Kiến phần” thì không có “Tướng phần”.
Từ thể-tánh chơn-tâm, không năng sở (bỉ, thử); song vì mê nên tâm động (nghiệp tướng)
mà sanh ra có năng-phân-biệt (chuyển tướng) và cảnh-giới bị phân-biệt (hiện tướng).
Nếu giác-ngộ không mê, thì tâm không động, lúc bấy giớ năng-phân-biệt không sanh,
và cảnh bị phân-biệt chẳng hiện.
Ðoạn này lưu-ý độc-giả: Trong luận này nói “Do nghiệp tướng sanh ra chuyển
tướng, do chuyển-tướng sanh ra hiện tướng”. Nói như thế, là lấy theo nghĩa
“tương-quan, tương-sanh” mà nói. Kỳ thật ba tướng này, đồng thời sanh-khởi;
nghĩa là một pháp vừa động, thì tất cả pháp đều động, không phải có thứ lớp tuần-tự
như vậy.
Tóm lại, ba tướng “Nghiệp tướng, Chuyển tướng và Hiện tướng” này, ở các kinh khác,
cũng thường gọi là “Hoặc, Nghiệp và Khổ”, hay trong Duy-thức gọi là “Tự-chứng-phần,
Kiến-phần và Tướng-phần của thức A-lại-da”.
GIẢI DANH-TỪ
Bất-giác và vô-minh: “Vô-minh”
là không sáng-suốt; “Bất-giác” là không giác-ngộ. Bởi thế nên bất-giác cũng
tức là vô-minh.
Tướng nghiệp vô-minh: Vô-minh
vọng-động thành ra tướng nghiệp, gọi tắt là “Nghiệp tướng”; tức là “Tự-chứng-phần”
của thức A-lại-da.
Tướng năng-kiến: Phần năng-phân-biệt,
cũng gọi là “Chuyển-tướng”; tức là “Kiến phần” của thức A-lại-da.
Tướng cảnh-giới: Cảnh-giới bị
phân-biệt, cũng gọi là “Hiện tướng”; tức “Tướng phần” của thức A-lại-da.
Phần đoạn sanh-tử: Sự sanh-tử
từng phần từng đoạn; nghĩa là bỏ thân này thọ thân khác, từ vô-thỉ đến nay bỏ không
biết bao nhiêu thân, mà thọ cũng không biết bao nhiêu thân.
Biến dịch sanh-tử: Sanh-tử do
sự biến-đổi. Như vị Tu-đà-hoàn, khi chứng lên quả Tư-đà-hàm (sanh) thì xả
vị Tu-đà-hoàn (tử); khi lên vị A-na-hàm, thì bỏ quả Tư-đà-hàm v.v… Thí như
người Lính, khi lên Cai thì bỏ Lính, lên Ðội thì bỏ Cai v.v…
Tự-chứng-phần: Duy-thức-tôn
nói: Mỗi người có 8 món Tâm-vương và 51 món Tâm-sở. Mỗi một Tâm-vương
hay Tâm-sở đều có 4 phần: 1.- Phần bị phân-biệt (tướng phần), 2.- Phần năng-phân-biệt
(kiến phần), 3.- Phần tự-chứng và 4.- Phần chứng-tự-chứng; hai phần này thuộc về
Thể, ở bên trong và làm chỗ nương cho hai phần ngoài.
Tương-quan tương-sanh: Liên-quan
với nhau và sanh cùng nhau, có cái này thì phải có cái kia.
II. NÓI VỀ LỤC-THÔ
CHÁNH VĂN
Do đã có cảnh-giới hiện ra (Hiện tướng), nên tiếp-tục sanh sáu tướng sau này:
1.
Tướng Trí (Trí-tướng : Phân-biệt).
Do có cảnh-giới hiện ra nên sanh tâm phân-biệt (Trí) thương, ghét.
2.
Tướng tương-tục (Tương-tục tướng : Vọng-niệm tương-tục).
Do tâm phân-biệt
thương ghét, cho nên tiếp-tục sanh ra các niệm khổ vui, mừng lo v.v… không dứt.
3.
Tướng chấp-thủ (Chấp-thủ tướng : Chấp sự vật).
Do các niệm
tương-tục phân-biệt những cảnh khổ vui, cho nên tâm mới vướng mắc, chấp lấy nơi
sự vật (cảnh).
4.
Tướng chấp danh-tự (Kế danh-tự tướng : Chấp danh-từ).
Do phân-biệt
vọng-chấp nơi sự vật, nên giả đặt ra những danh-tự để kêu gọi.
5.
Tướng khởi-nghiệp (Khởi-nghiệp tướng : Tướng tạo nghiệp).
Do chấp theo
danh-tự tốt xấu đó, rồi tạo ra các nghiệp lành hay dữ.
6.
Tướng nghiệp-hệ-khổ (Nghiệp-hệ-khổ tướng : Thọ quả khổ).
Do tạo ra các
nghiệp, nên bị các nghiệp kéo dẫn đi lãnh thọ quả khổ, không được tự tại.
Tóm lại, phải
biết: Gốc từ vô-minh (căn-bản vô-minh) sanh ra các pháp nhiễm-ô (chi-mạt vô-minh)
nên các pháp nhiễm-ô đều là vô-minh (bất-giác).
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói về 6 món thô (lục-thô). Do từ vô-minh vọng-động (Tự-chứng-phần
của thức A-lại-da) khởi ra tâm (Kiến-phần của thức A-lại-da) và cảnh (Tướng phần
của thức A-lại-da) là ba món vi-tế, rồi tiếp-tục sanh-khởi 6 món Thô sau này:
1. Vì có cảnh-giới (hiện tướng) nên tâm phân-biệt tốt xấu, rồi sanh ra thương
(tham) ghét (sân) v.v… gọi là “Tướng-trí”. Chữ “Trí” là biết phân-biệt tốt
xấu.
2. Do tâm biết phân-biệt tốt xấu v.v… nên các niệm thương ghét, mừng giận,
khổ vui v.v… tiếp-tục sanh khởi không gián-đoạn, gọi là “Tướng tương-tục”.
3. Do các niệm thương ghét, mừng giận, khổ vui, nên sanh tâm chấp lấy: Cái
gì vui thích thì tham-luyến, còn buồn khổ thì sân hận, gọi là “Tướng chấp-thủ”.
4. Do sanh tâm chấp cảnh, nên giả đặt ra những danh-từ để kêu gọi, cái này
đẹp, cái kia xấu v.v… gọi là “Tướng kế danh-tự).
5. Do có những danh-tự kêu gọi đẹp xấu v.v… nên sanh tâm tham-lam, giận ghét,
và vì thế mà tạo ra cái nghiệp, gọi là “Tướng khởi nghiệp”.
6. Do tạo các nghiệp, nên bị nghiệp kéo dẫn sanh-tử luân-hồi trong 3 cõi,
để thọ quả-báo, không được tự-tại, gọi là “Tướng nghiệp-hệ-khổ”.
Tóm lại, do “mê-hoặc” nên “tạo nghiệp”; nhơn “tạo nghiệp” nên phải thọ “quả khổ”;
rồi từ nơi “quả khổ” trở lại “mê hoặc” nữa; nhơn “hoặc” lại tạo “nghiệp”, do “nghiệp”
thọ “quả khổ”, mãi mãi không biết bao giờ cùng tận, như cái vòng tròn không mối,
nên gọi là “Luân-hồi”.
Bởi do vô-minh vọng-niệm sanh ra tất cả các pháp phiền-não tạp-nhiễm, nên các pháp
đều là vô-minh. Nếu người được “vô niệm” (không vọng niệm), thì tất cả các
pháp phiền-não sanh-tử đều hết.
Trong 3 món Tế và 6 món Thô này, về phàm-phu thì đủ cả; Tiểu-thừa về 3 quả trước,
thì đủ 3 món Tế và 4 món Thô trước; A-la-hán thì có 3 món Thô trước; hàng Pháp-thân
Bồ-tát (từ Bát-địa trở lên) chỉ còn 3 món Tế.
Xin xem biểu-đồ sau đây:
I. Phàm-phu có đủ 9 món.
3 món Tế:
1.
Nghiệp tướng (vọng động).
2.
Chuyển tướng (trực-giác).
3.
Hiện tướng (cảnh).
6 món Thô:
1.
Trí tướng (phân-biệt).
2.
Tương-tục tướng (vọng-niệm tương-tục).
3.
Chấp-thủ tướng (chấp sự vật).
4.
Kế-danh-tự tướng (chấp danh-tự).
5.
Khởi-nghiệp tướng (tạo nghiệp).
6.
Nghiệp-hệ-khổ tướng (thọ quả).
II. Tiểu-thừa, 3 quả trước, có 7 món.
3 món Tế:
1.
Nghiệp tướng.
2.
Chuyển tướng.
3.
Hiện tướng.
4 món Thô:
1.
Trí tướng.
2.
Tương-tục tướng.
3.
Chấp-thủ tướng.
4.
Kế-danh-tự tướng.
III. A-la-hán có 6 món.
3 món Tế:
1.
Nghiệp tướng.
2.
Chuyển tướng.
3.
Hiện tướng.
3 món Thô:
1.
Trí tướng.
2.
Tương-tục tướng.
3.
Chấp-thủ tướng.
IV. Pháp-thân Bồ-tát chỉ có 3 Tế.
1.
Vô-minh nghiệp tướng (nghiệp tướng).
2.
Năng-kiến tướng (chuyển tướng).
3.
Cảnh-giới tướng (hiện tướng).
III. NÓI VỀ HAI TƯỚNG
CHÁNH VĂN
Lại nữa, “Giác” (chơn) với “Bất-giác” (vọng) đều có 2 tướng: Ðồng và Khác.
Thế nào là “Ðồng”? - Các sự-nghiệp huyễn-hóa của “Giác” (vô-lậu) và “Bất-giác”
(vô-minh) đều đồng một thể-tánh chơn-như. Thí như các món đồ gốm đều đồng
một chất đất.
Bởi thế nên trong Khế-kinh chép: “Tất cả chúng-sanh, từ hồi nào đến giờ, vẫn
thường ở trong Bồ-đề Niết-bàn; không phải do tu mới có, do làm mới được; rốt-ráo
không có cái gì gọi là “chứng” cả, và cũng không hình tướng gì có thể thấy được.
Song, chúng-sanh thấy sắc-thân Phật, có 32 tướng tốt, có 80 vẻ đẹp v.v… là do tùy
tâm vọng-nhiễm của chúng-sanh mà huyễn hiện, không phải tánh chơn-như có các hình
tướng ấy; vì tánh chơn-như không có thể thấy được như vậy.
Thế nào là khác? - Do tùy tâm vọng-nhiễm của chúng-sanh mà hiện ra các huyễn-tướng
sai khác: hữu lậu (mê) và vô lậu (giác). Ví như các thứ đồ gốm, hình tướng
khác nhau.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này lấy hai mặt “đồng” và “khác” giữa “giác” và “bất giác”, để chỉ sự tương-quan
tương-phần của hai thứ ấy. Ðứng về bản-thể của các pháp mà luận, thì “nhiễm”
và “tịnh” đều là Chơn-như. Còn đứng về hiện-tượng của các pháp mà nói, thì
“nhiễm” và “tịnh” có sai khác.
Bởi “giác” và “bất giác” đều là Chơn-như, cũng như các thứ đồ gồm (đồ kiểu hay đồ
đá) đều bằng đất, nên nói tất cả chúng-sanh từ hồi nào đến giờ, vẫn thường ở trong
Chơn-như. Tánh Chơn-như này không phải do tu mới được hay làm mới có; rốt
ráo không có sở-đắc, và cũng không có hình tướng gì có thể chỉ bày được.
Song, chúng sanh thấy có Phật hiện thân độ sanh; đó là do tự tâm của chúng sanh,
tùy nghiệp huyễn-hiện, chứ không phải tánh Chơn-như có những hình tướng như thế.
Câu: “Tùy tâm vọng nhiễm của chúng sanh mà hiện ra các huyễn tướng sai
khác: hữu lậu (mê) và vô lậu (giác)”. Nghĩa là nói: Không phải ở
đâu khác, mà chính ở tâm chúng sanh, có thể đổi các phiền-não nhiễm-ô, ra các công
đức thanh tịnh. Khi tâm vọng động thì sanh ra vô lượng hằng-sa pháp tạp nhiễm,
khi tâm hết vọng động thì hiện ra vô lượng hằng-sa công đức thanh tịnh. Tất
cả đều tùy tâm của chúng sanh mà hiện ra các tướng nhiễm, tịnh. Các tướng
này đều như huyễn.
Câu: “… Các sự-nghiệp chuyển-hóa của vô lậu (giác) và vô minh (mê)”, có nghĩa là:
Tánh-giác đã có nghiệp-dụng, hiện ra tất cả cảnh giới thù-thắng vi-diệu, không thể
nghĩ-bàn, thì vô minh cũng có nghiệp-lực hiện ra Tam-tế, Lục-thô, tất cả sanh-tử
khổ vui, cũng không thể nghĩ bàn. Bởi thế nên chơn và vọng đều là huyễn cả.
Khế kinh nói: “Sanh-tử và Niết-bàn đều như mộng huyễn”.
QUYẾT NGHI
Hỏi: Chúng sanh đã vốn là Phật, tại sao không thấy chúng sanh có Báo thân
và Hóa thân Phật?
Ðáp: Khi nói chúng sanh vốn là Phật, là đứng về phương-diện bản-thể Phật-tánh
mà nói, chứ không phải đứng về phương-diện hiện-tượng Phật-tướng mà nói vậy.
Về bản-thể thì các chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng về hiện-tượng thì chúng sanh
không có Phật-tướng, nên tất-nhiên không có Báo-thân và Hóa-thân.
Hỏi: Chơn-như Phật-tánh đã không có sắc-tướng, tại sao chư Phật chứng được,
và có tướng Báo-thân và Hóa-thân?
Ðáp: Sắc-thân của chư Phật, chỉ tùy theo tâm của chúng sanh mà hiện ra, không
phải trong thể-tánh chơn-như có những hình-tướng ấy.
Ðã nói về “Tâm sanh-diệt”, dưới đây sẽ nói Tướng “nhơn-duyên sanh-diệt”.