Bài Thứ Mười Một:
Ngài A Nan hỏi Phật: Trói Cột
Ở chỗ Nào và Làm Sao Mở được
I. Ngài A Nan hỏi Phật:
trói cột
ở chỗ
nào và
làm sao mở
được?
II. Phật chỉ chỗ trói cột (gút)
III. A Nan hỏi: tại
sao bị sanh tử
luân hồi
hay được tự
tại giải
thoát cũng
vì sáu
căn?
IV. Phật nói
bài kệ
tóm lại
nghĩa trên
V. Vọng hết thì
chơn hiện
I. Ngài A Nan hỏi Phật: trói cột ở chỗ nào và làm sao mở được?
A Nan thưa:
Bạch Thế Tôn, như lời Phật dạy về cái nghĩa thứ hai là phải biết rõ gốc rễ của phiền
não ở chỗ nào, mới có thể trừ được. Cũng như người mở gút, nếu không biết mối gút
ở đâu thì không bao giờ mở được.
Bạch Thế tôn! Chính thế, chúng con
đây cũng vậy, từ vô thỉ đến nay, cùng với các vô minh chung (đồng) sanh và chung diệt;
tuy mang danh xuất gia, học rộng nghe nhiều, thật ra cũng như người bị bệnh rét
(làm cử) cách ngày (giác
thời tự ngộ, xúc cảnh hoàn mê).
Cúi xin đức Như Lai thương xót những
kẻ trầm luân hiện tại cũng như vị lai chỉ dạy cho ở nơi thân tâm này, chỗ nào triền
phược (gút), và làm sao mở được?
II. Phật chỉ chỗ trói cột (gút)
Khi đó Phật cùng với mười phương chư
Phật, đều thương xót A Nan và đại chúng cùng các chúng sanh đời sau, nên trên đảnh
các Ngài đồng phóng hào quang quý báu chiếu khắp tất cả, đồng gọi A Nan cùng đại
chúng và dạy rằng:
- Nay các ông muốn biết cái “câu sanh
vô minh” (vô minh chung cùng sanh từ vô thỉ đến nay)
để trừ, và “quả vô thượng Bồ đề” để tu chứng, vậy nay ta sẽ chỉ rõ cho các ông.
Này A Nan, khiến cho các ông nhiều
kiếp sanh tử luân hồi, chỉ vì sáu căn mà làm cho các ông chứng được đạo quả Bồ đề
an vui giải thoát, cũng chỉ vì sáu căn của các ông mà thôi.
LƯỢC GIẢI
Mười phương các đức Phật, đồng phóng
hào quang, đồng dạy như vậy, là để cho A Nan và đại chúng đều biết: đây là một phương
pháp duy nhứt, không những một mình đức Thích Ca, mà cả mười phương chư Phật cũng
đồng chỉ dạy như thế.
*
III. A Nan hỏi: tại sao bị sanh tử luân hồi hay được tự tại giải
thoát cũng vì sáu căn?
Ông A Nan đã nghe Phật chỉ dạy, nhưng
chưa hiểu nên kính cẩn hỏi Phật:
- Bạch Thế tôn, tại sao làm cho chúng
con nhiều kiếp sanh tử luân hồi cũng vì sáu căn, còn được an vui giải thoát cũng
chỉ do sáu căn, chứ không phải do vật gì khác?
Phật dạy rằng:
Căn và trần đồng một thể (tâm), triền
phược và giải thoát không hai (mê thì triền phược, ngộ thì giải thoát). Các thức hư vọng, cũng như hoa đốm giữa hư
không.
LƯỢC GIẢI
Căn trần không lỗi mà lỗi tại vọng thức
phân biệt, song thức thì hư vọng không có thật thể như hoa đốm giữa hư không.
Cũng đồng căn và trần này, song phàm
phu vì mê, khởi vọng thức phân biệt ngã, pháp, nên bị triền phược, gọi là kiết (gút).
Thánh non cũng đồng căn trần này, song vì giác ngộ không khởi phân biệt chấp thật
có ngã, pháp nên được giải thoát, thế gọi là (mở).
*
A Nan, vì có trần cảnh, nên ở nơi căn
mới khởi ra phân biệt. Vì đã có cái năng phân biệt ở nơi căn, nên mới hiện ra cái
tướng bị phân biệt là cảnh. Căn (kiến) và cảnh (tướng) đối đãi nhau vọng hiện, chớ không thật có
(vô tánh). Cũng như hình cây lâu gác
gác nhau.
LƯỢC GIẢI
Vì các cây lau gác nhau, nên ở xa xem
như có hình người hay vật. Cái hgình này không thật. Ðây là dụ cho căn trần hư huyễn
không thật, vì đối đãi nhau nên vọng hiện ra mà thôi.
*
- Thế nên, khi thấy, nghe, hay, biết,
mà khởi vọng niệm phân biệt, đó là gốc vô minh. Còn khi thấy, nghe, hay, biết mà
không khởi vọng niệm phân biệt, đó là Niết bàn. Ở trong chơn tâm thanh tịnh, không
có dung chứa vật gì cả.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật dạy, khi sáu căn đối với
sáu trần cảnh nếu khởi vọng niệm phân biệt, đó là gốc của vô minh triền phược (trói
cột). Bởi thế nên Phật nói: “vì sáu căn làm cho các ông sanh tử luân hồi”. Trái
lại, khi sáu căn đối với sáu trần, mà không khởi vọng niệm phân biệt đó là Niết
bàn, là giải thoát (mở gút) nên Phật nói: “Làm cho các ông được an vui giải thoát
cũng vì sáu căn”.
*
IV. Phật nói bài kệ tóm lại nghĩa trên
Khi đó Phật muốn tóm lại các nghĩa trên,
nên nói bài kệ ý nghĩa như vầy:
NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN
Chơn tánh hữu vi không
Duyên sanh có như huyễn
Bất thật như không hoa
Ngôn vọng hiển chư chơn
Vọng, chơn đồng nhị vọng
Do phi chơn phi chơn
Vân hà kiến sở kiến
Trung gian vô thật tánh
Thị cố nhược giao lô
Giải kết đồng sở nhơn
Thánh phàm vô nhị lộ
Nhữ quán giao trung tánh
Không hữu nhị câu phi
Mê hối tức vô minh
Phát minh tiện giải thoát
Giải kết nhơn thứ đệ
Lục giải nhứt diệc vong
Căn tuyển trạch Viên Thông
Nhập lưu thành Chánh giác
Ðà na vi tế thức
Tập khí thành bộc lưu
Chơn phi chơn khủng mê
Ngã thường bất khai diễn
Tự tâm thủ tự tâm
Phi huyễn thành huyễn pháp
Bất thủ vô phi huyễn
Phi huyễn thường bất sanh
Huyễn pháp vân hà lập
Thị danh diệu liên hoa
Kim cang vương bảo giác
Như huyễn tam ma đề
Ðàn chĩ siêu vô học
Thử A tỳ đạt ma
Thập phương Bạc Già phạm
Nhứt lộ Niết bàn môn
DỊCH NGHĨA BÀI KỆ
Xứng theo chơn tánh (chơn tâm)
thì các pháp hữu vi (vọng) không thật
có, do nhơn duyên sanh, cũng như vật huyễn thuật.
Xứng về chơn tánh thì vô vi
(chơn)
cũng không thật có, vì nó không sanh diệt, như hoa đốm giữa hư không.
Nói hữu vi là vọng, để hiển vô vi kia
là chơn. Vì đối đãi nhau mà có, nên “chơn” và “vọng” cũng đồng vọng cả. Ðến lý này,
còn không thể nói là “chơn” hay “phi chơn”, thì làm sao gọi nó là cái “thấy”
(căn)
hay cái “bị thấy” (trần) được. Vì nó
như vật huyễn, chẳng có thật tánh, cũng như hình cây lâu gác.
Giải thoát hay triền phược đồng do
sáu căn. Ðược chứng Thánh hay bị đọa phàm cũng bởi sáu căn, chớ không có con đường
nào khác. Các ông cứ xem hình cây lâu gác kia, nói có hay nói không đều không thể
được. Hễ mê muội là vô minh, còn giác ngộ thì giải thoát.
Cột gút lại hay mở ra, đều phải theo
thứ lớp. Khi sáu gút (sáu căn) mở rồi, thì cái tên
một cũng không còn (vì không còn đối đãi, nên không thể kêu gọi).
Các ông lựa được căn viên thông tu hành, thì mau đặng thành quả Phật.
Thức A Ðà Na (thức thứ tám) rất là tinh
tế, các chủng tử trong thức này nó sanh diệt rất vi tế, như giòng nước chảy mau.
Ta đối với phàm phu và tiểu thừa không hề giảng nói (thức này)
vì sợ chúng mê lầm chấp là “chơn” hay là “vọng”, đều có hại cả.
Tự nơi tâm các ông, trở lại chấp lấy
tự tâm các ông. Chơn tâm không phải huyện mà trở lại thành hư huyễn. Nếu đối với
các “chơn” mà các ông không sanh tâm chấp thủ: với cái “chơn” kia hãy còn không
sanh, huống chi là cái “hư huyễn” làm gì có được.
Ðây là con đường duy nhứt của mười
phương các đức Phật tu hành đến cảnh Niết bàn. Pháp này tên là Diệu Liên Hoa, cũng
tên Kim Cang Vương Bảo Giác và cũng tên là Như huyễn Tam ma đề. Chỉ tu trong giây
phút thì được quả vô học.
Khi đó A Nan và đại chúng nghe Phật
nói bài kệ nghĩa lý thâm trầm, nên tâm trí mỗi người đều trở nên sáng suốt, được
lợi ích chưa từng có.
LƯỢC GIẢI
Ông A Nan đã mấy lần cầu Phật chỉ dạy
phương pháp nào mười phương các đức Phật tu hành để được thành đạo chứng quả. Ðiều
ấy, Phật chỉ dạy đến đây đã tường tận.
Từ trước đến đây là nói về phần đốn
tu và đốn chứng. Từ đây về sau Phật mới dạy về phần tiệm tu.
*
V. Vọng hết thì chơn hiện
- Này A Nan, tùy ông lựa chọn sáu căn
mà tu hành, nếu sự kiết phược ở nơi căn diệt; khi các vọng đã tiêu hết, thì đó là
“chơn” chứ gì nữa!
A Nan, ông hãy xem cái khăn đã cột
sáu gút đây, có thể đồng một thời mở được hết sáu gút được không?
A Nan thưa: Bạch Thế tôn, sáu gút tuy
đồng một cái khăn, song khi cột, đã tuần tự mà cột, thì khi mở cũng phải theo thứ
lớp mà mở, không thể đồng một thời mở được hết.
Phật dạy:
Sáu căn của ông khi giải trừ cũng phải như vậy. Mở gút đầu tiên là phá trừ ngã chấp
(chấp ta) trước chứng đặng nhơn không.
Tiến đến từng thứ hai là phá trừ Phá chấp, sau mới chứng đặng pháp không. Ngã, pháp
đều không sanh, thế mới gọ là Bồ tát đặng Vô sanh nhẫn (an nhẫn nơi nhơn,
pháp đều không sanh)