BÀI THỨ MƯỜI HAI
I.
Ngài A-Nan hỏi Phật pháp tu viên-thông.
II.
Phật hỏi
hai mươi lăm vị thánh, do tu pháp-môn gì mà được chứng-quả.
III.
Hai mươi
lăm vị Thánh đều thuật lại pháp tu của mình được chứng-quả.
IV.
Ngài
Quán-Âm Bồ-tát kể lại sự kết-quả.
BÀI THỨ MƯỜI HAI
I.
NGÀI A-NAN HỎI PHẬT PHÁP TU VIÊN-THÔNG.
Ngài A-Nan và đại-chúng nhờ Phật khai-thị, trí-tuệ sáng-suốt, tâm hết
nghi lầm, nên đồng lạy Phật, quỳ gối chắp tay và kính-cẩn thưa rằng
- Bạch Thế-Tôn,
chúng con là kẻ phiêu-linh, nhiều kiếp bần-cùng cô-quạnh, không biết nhờ có
hạnh-phúc gì mà được làm em của Phật, cũng như đứa hài-nhi mất sữa đã lâu, nay
lại gặp được từ-mẫu!
- Bạch Thế-Tôn, hôm
nay chúng con thân-tâm đã được khai-ngộ, hết những nghi-ngờ, nghe Phật chỉ dạy
hiểu được cái nghĩa “sáu gút mở thì cái tên trong một gút cũng không còn”. Nhưng
chúng con còn chưa hiểu “tu căn nào mới được viên-thông”. Cúi xin đức Như-Lai,
duỗi lòng đại-bi khai-thị cho chúng con lần cuối cùng, may ra có cơ-hội này, con
trở lại với bản-tâm thanh-tịnh của mình, được thành đạo-quả.
II.
PHẬT HỎI HAI MƯƠI LĂM VỊ THÁNH, DO TU PHÁP-MÔN GÌ MÀ ÐƯỢC CHỨNG-QUẢ.
Khi đó đức Phật hỏi toàn-thể đại-chúng:
- Các ông là người tu-hành trong đạo của ta, vậy khi
các ông mới phát tâm, đối với 18 giới (sáu căn, sáu trần và sáu thức), do tu
theo phương-tiện nào mà được thành đạo-quả?
LƯỢC
GIẢI
Tuy nói 18 giới, chớ tóm lại thì có sáu căn. Do sáu căn tu-hành mà được
thành đạo-quả. Nên trước kia Phật nói: “Sanh-tử luân-hồi hay an-vui giải-thoát,
cũng chỉ tại sáu căn của các ông”. (Vì muốn cho đôc-giả hiểu qua những pháp tu
của 25 vị Thánh, nên lần tái-bản quyển Ðại-cương Lăng-nghiêm này, chúng tôi có
trích một đoạn (từ trang 148 đến 181) trong bản kinh Lăng-nghiêm do ông Tâm-Minh
dịch, in thêm vào đây, để giúp đôc-giả nghiên-cứu)
III. HAI MƯƠI LĂM VỊ
THÁNH ÐỀU THUẬT LẠI PHÁP TU CỦA MÌNH ÐƯỢC CHỨNG ÐẠO-QUẢ.
1. DO THANH-TRẦN CHỨNG ÐƯỢC A-LA-HÁN
Ông Kiều-trần-na trong hàng năm vị Tỳ-kheo liền từ chỗ ngồi đứng dậy bạch
Phật rằng:
- Con ở nơi Lộc-uyển và Kê-viên, gặp đức Như-Lai khi
mới thành đạo; nhân nghe âm-thanh thuyết-pháp của Phật mà tỏ-ngộ lý Tứ-đế. Phật
hỏi các Tỳ-kheo, thì con trước hết được gọi là “hiểu”; Như-Lai ấn-chứng cho con
tên A-nhã-đa. Con do nơi âm-thanh vi-diẹu viên-mãn mà thành bực A-la-hán. Nay
Phật hỏi pháp tu viên-thông, thì như chỗ sở-chứng của con, âm-thanh là hơn cả.
LƯỢC GIẢI
Viên-dung thông nhập Như-lai-tạng diệu chơn-như-tánh của các pháp nên gọi
là viên-thông. Bất cứ tu pháp nào mà chứng được chơn-như của tất cả Pháp thì đều
gọi pháp đó là viên-thông.
Trong các đoạn trước, Phật đã chỉ rõ cho chúng ta thấy: sanh-tử luân-hồi
do nơi sáu căn, mà được an-vui diệu-thường cũng do nơi sáu căn; sáu căn tuy
vọng, nhưng không thể ngoài sáu căn tìm có cái chơn được. Vì rằng trong khi đang
mê, chúng ta đem sáu căn này mà thấy, nghe, cảm-xúc; đến khi giác-ngộ, chúng ta
cũng chỉ đem sáu căn này mà tiếp-xúc với trần-cảnh. Vậy mà khi mê thì các căn bị
ràng-buộc nên gọi là gút (kiết); đến khi ngộ thì sáu căn được viên thoát nên gọi
là mở.
Vì sao mà thành ra cột gút, và làm sao để mở gút, thì trước Phật đã dùng
phương-tiện cột khăn mở khăn để chỉ dạy rõ-ràng. Ðồng một tánh Như-lai-tạng mà
vì nguyên-do mê-lầm nên hiện ra sáu căn ràng-buộc. Bởi thế nên nếu nói rằng
vọng, thì căn nào cũng vọng; mà nói rằng chơn, thì căn nào cũng là chơn. Nếu một
căn được chơn thì tất cả các căn đều chơn. Lúc bấy giờ, các căn tự-tại không còn
bị bó buộc trong phạm-vi: mắt chỉ thấy sắc, tai chỉ nghe tiếng, mũi chỉ ngửi mùi
v.v… mà trái lại sáu căn tự-tại thọ dụng. Vậy nên tu nhãn-căn, không phải là
liệt, tu nhĩ-căn không phải là thắng v.v… cho đến bất luận tu một căn nào hay
một món đại nào cũng như nhau cả, không gì hơn chẳng gì kém, miền làm sao thấu
rõ thật-tánh của một pháp thì được viên-ngộ viên-thoát. Ông A-Nan tuy đã
thâm-ngộ cái ý-nghĩa viên-ngộ viên-tu ấy, nhưng hiện-tiền chưa rõ sáu căn, căn
nào thích-hợp với trình-độ của mình và chúng-sanh ở cõi Ta-bà này, nên cầu Phật
chỉ bày. Phật liền gạn hỏi trong đại-chúng, các vị Ðại Bồ-tát và các vị A-la-hán
đã chứng quả vô-học, để xem mỗi người, khi ban sơ phát tâm, tu theo phương-tiện
gì mà đặng ngộ-đạo. Một điều mà chúng ta nên chú-ý là Phật gạn hỏi chỗ ngộ đạo
của các bậc Thánh-hiền-tăng, đây không phải để so-sánh chỗ hơn kém, mà cốt để
chứng-minh lời Phật đã dạy trước, để chỉ rõ lối tu viên-đốn của Ðại-thừa, khác
lối tu tiệm-thứ của Nhị-thừa, và để cho Ngài A-Nan nhân đó, tự lựa căn nào
viên-thông thích-hợp với trình-độ của mình mà tu để được giải-thoát. Không riêng
ông A-Nan, nếu chúng ta sau khi nghe hiểu và biết lựa lấy một pháp thích-hợp để
tu-hành, thì sẽ đặng ngộ-nhập viên-thông tam-muội.
Ông Kiều-trần-như cùng bốn thầy Tỳ-kheo (5 ông này theo Phật tu khổ-hạnh
và được Phật hóa-độ trước nhứt) nhân âm-thanh của Phật thuyết-pháp mà ngộ lý
Tứ-đế, chứng viên-thông; nên đối với pháp-môn thích-hợp làm cho ông chứng-ngộ,
thì thanh-trần là hơn cả. Thứ nhứt nhờ âm-thanh của Phật giảng về Tứ-đế mà ngộ
được lý Tứ-đế (khổ, tập, diệt, đạo). Thứ hai ông quán-sát rõ thấu thật-tướng của
âm-thanh, mà ngộ đạo. Thật-tướng của âm-thanh là vô-tướng, không đọa về
nhân-duyên, tự-nhiên, hòa-hợp, phi hòa-hợp như trước Phật đã chỉ dạy; nó thường
vắng-lặng, cùng khắp 10 phương, theo nghiệp cảm, theo tâm-lượng của chúng-sanh
mà phát hiện, nên tuy khi chúng ta không đêm tâm phân-biệt, mà khi ấy tiếng cũng
chẳng phải không, chẳng phải các chúng-sanh khác cũng tuyệt không nghe thấy như
ta. Xưa nay chúng ta chỉ phân-biệt theo giả ảnh của thanh-trần sanh-diệt đối-đãi
với ta, nên bị thống-khổ theo khi có tiếng, hay khi không có tiếng, chứ chưa hề
lắng lòng định trí rời vọng-trần để quán thật-tánh của những tiếng động tịnh là
từ đâu, nên cũng chưa hề liễu nhập tánh âm-thanh vốn là tánh diệu chơn-như của
Như-lai-tạng. Thật tướng của âm-thanh đã như vậy, thì thật-tướng trí do âm-thanh
thuyết-minh cũng vậy.
2. DO SẮC-TRẦN CHỨNG A-LA-HÁN
Ông Ưu-ba-ni-sa-đà, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh-lễ chân Phật mà bạch
rằng:
- Con gặp Phật lúc mới thành đạo, nhơn quán tướng
bất-tịnh, sanh tâm rất nhàm-chán xa-lìa; từ tướng bất-tịnh đến tướng xương
trắng, vi-trần rồi tan về hư-không, sắc không, không hai, ngộ thật-tánh các sắc,
thành vô-học đạo. Ðức Như-Lai ấn-chứng cho con tên Ni-sa-đà, sắc phù-trần tiêu
hết, sắc diệu-tánh chân mật viên-dung. Con từ sắc-tướng kia mà thành bực
A-la-hán. Nay Phật hỏi viên-thông thì như chỗ sở-chứng của con, quán sắc làm
nhơn là hơn cả.
LƯỢC GIẢI
Ông Ưu-ba-ni-sa-đà (Tàu dịch là Trần-tánh, theo chỗ ngộ mà đặt tên), nhơn
quán sắc-tướng mà chứng-quả. Hàng Nhị-thừa thì quán bất-tịnh để sanh tâm
nhàm-chán diệt tham-dục, cầu chứng Niết-bàn. Trái lại hàng Bồ-tát quán bất-tịnh
để nhận rõ nhân-duyên thống-khổ, chỗ đảo chấp Bất tịnh kế tịnh của chúng-sanh mà
hóa-độ, phá-trừ tâm tham-đắm sắc-thân ngũ-dục.
Ông Ưu-ba-ni-sa-đà tu theo pháp quán đó, tịnh tâm nhiếp-ý, quán-sát thân
phần của chúng-sanh, chỉ toàn là một vật nhơ-nhớp, thối-tha, cả từ đầu đến chân,
từ trong ra ngoài, và rõ-ràng nhứt khi thân ấy đã thành một tử-thi phình-trướng
bầm xanh, bại hoại, máu mủ chảy ra, gân thịt úa rửa, cầm-thú rúc ăn, xương gân
ly tán, chỉ còn nắm xương khô, lần lần tiêu ra tro-bụi, biến vào hư-không. Cái
sắc-thân đã tan về hư-không, đâu có phân-biệt chia rẽ sai-khác; chỉ vì đem tâm
phân-biệt, tương đối với sắc mà gọi là không, tương-đối với không mà gọi là sắc,
vậy nên sắc, không đều không tự-tánh.
3. DO HƯƠNG-TRẦN CHỨNG A-LA-HÁN
Ông Hương-nghiêm đồng-tử liền từ chỗ ngồi, đứng dậy đảnh-lễ Phật mà bạch
rằng:
- Con nghe đức Như-Lai dạy con chín-chắn quán các tướng
hữu-vi. Con liền từ-tạ Phật lui về nhà thanh-trai yên-tịnh, trông thấy các thầy
Tỳ-kheo đốt hương trầm-thủy, mùi hương lặng-lẽ bay vào trong mũi; con quán-sát
mùi hương đó: chẳng phải là gỗ, chẳng phải là hư-không, chẳng phải khói, chẳng
phải lửa, đi không chỗ tới, đến không chỗ bắt đầu, do đó vọng-ý tiêu-diệt,
phát-minh tánh vô-lậu. Ðức Như-Lai ấn-chứng cho con hiệu là Hương-nghiêm, hơi
hương phù trần thoạt diệt, hơi hương diệu-tánh được mật-viên. Con do nơi
hương-trần kia mà thành bực A-la-hán. Nay Phật hỏi viên-thông, thì như chỗ
sở-chứng của con, hương-nghiêm là hơn cả.
LƯỢC GIẢI
Ông Hương-nghiêm đồng-tử (theo chỗ ngộ mà đặt tên) nhân quán-sát cái
tướng hữu-vi là hương-trần mà chứng được viên-thông. Thường thường chúng ta chỉ
tưởng mùi hương là một thứ sẵn có của gỗ trầm v.v… hễ có gỗ trầm là có hương;
nhưng xét kỹ thì mùi hương ấy đâu phải chỉ do gỗ trầm mà có được; còn do
không-khí, do lửa đốt và do tỹ-căn của ta tiếp-xúc, tỹ-thức giác-xúc, ý-thức
phân-biệt nữa, nếu ngoài công-năng của hai thứ năng-tri, sở-tri trên ra thì
không thành mùi hương được. Vậy thật ra tánh chơn-thật hương-trần không phải là
năng-tri sở-tri, cũng không phải ly năng-tri sở-tri, nó có ra chỉ tùy theo
nghiệp của mỗi chúng-sanh mà phát-hiện.
4. DO VỊ-TRẦN CHỨNG BỒ-TÁT
Hai vị Pháp-vương-tử Dược-vương, Dược-thượng cùng năm trăm Phạm-thiên
trong hội, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh-lễ dưới chân Phật mà bạch rằng:
- Con từ vô-thỉ kiếp làm vị lương-y trong đời, miện con
từng nếm các vị cỏ, cây, vàng, đá của thế-giới Ta-bà này, số đến mười vạn tám
nghình thứ: như vậy đều biết hết thảy vị của: đắng, cay, chua, ngọt, mặn, lạt,
các vị hòa-hiệp, cu-sanh, biến-dị, cho đến nào là lạnh, là nóng, có độc, không
độc, đều biết khắp cả. Sau con lại nhân thừa sự đức Như-Lai mà hiểu rõ vị-tánh,
chẳng phải không, chẳng phải có, chẳng phải tức thân-tâm, chẳng phải ly
thân-tâm, phân-biệt vị-trần, mà đặng khai-ngộ. Do đó, Phật ấn-chứng cho anh em
con hiệu là Dược-vương Bồ-tát, Dược-thượng Bồ-tát và làm Pháp-vương-tử ở trong
hội này, là nhơn vị-trần mà đặng giác-ngộ lên hàng Bồ-tát. Nay Phật hỏi
viên-thông, thì như chỗ sở-chứng của con, quán vị-trần làm nhơn là hơn cả.
LƯỢC GIẢI
Vị-trần là các vị cay, chua, đắng, ngọt; vị hòa-hiệp như các món ăn do
nhiều thức hiệp lại; vị cu-sanh như ớt sẵn cay, bồ-hòn sẵn đắng; vị biến-dị là
do thay-đổi mà ra, như mật ong để lâu hóa chua, rượu để lâu thì lạt…
Ngài Dược-vương, Dược-thượng Bồ-tát do phân-biệt quán-sát bốn nhân của
vị-trần mà chứng đạo. Quán-sát nguyên-nhân của vị như thế nào? Nếu nói vị do
hư-không thì sao nếm hư-không không biết ngọt, đắng; nói rằng thiệt có, thì vị
vốn vô-hình; nói rằng vị tức là thân tâm, thành ra nó có tánh biết; còn nói vị
ly thân tâm thì cái gì phân-biệt mà biết vị. Hai vị Bồ-tát quán-sát như vậy,
ngộ-nhập cái tánh phi tức, phi ly, phi không, phi hữu của vị-trần, nên vọng-ý
tiêu-tan, mà giác-tánh được tỏ bày vậy.
5. DO XÚC-TRẦN MÀ CHỨNG THÁNH
Ông Bạt-đà-bà-la với mười sáu người bạn Bồ-tát sơ phát-tâm, liền từ chỗ
ngồi, đứng dạy đảnh-lễ chân Phật mà bạch rằng:
- Kiếp trước, lúc đức Phật Oai-âm-vương ra đời, chúng
con nhân đặng gặp Phật, nghe pháp mà xuất-gia, trong ngày chúng Tăng tắm gội,
con theo thứ-tự vào nhà tắm, thì thoạt-nhiên ngộ biết thủy-trần vốn không, rửa
bụi trần hay không rửa bụi-trần, tâm giác thường vắng-lặng, không có tướng gì…
do tập-quán cũ ấy nhớ mãi cho đến ngày nay, theo Phật xuất-gia được thành bậc
vô-học. Ðức Oai-âm-vương gọi tên con là Bạt-đà-bà-la, nhân diệu xúc tỏ bày
sáng-suốt, thành vị Phật-tử trụ. Nay Phật hỏi viên-thông, thì như chỗ sở-chứng
của con, quán-xúc-trần làm nhơn là hơn cả.
LƯỢC GIẢI
Ông Bạt-đà-bà-la (Tàu dịch là Thiên-thủ hay Hiền-hộ) nhân quán xúc-trần
mà ngộ-nhập viên-thông. Xúc là đụng-chạm, tiếp-xúc. Cảnh bị biết của thân-căn,
hay nói cách khác là cảnh ứng hợp thân cần phát-sanh, nhận biết có lạnh, nóng,
trơn, nhám v.v… đều gọi là xúc-trần. Như vậy, xúc trần được phát-hiện là bởi có
thân-căn với sắc-cảnh, thiếu một không thành, xúc-trần hư-dối. Vả lại như khi
đối trước một lò lửa, nếu kẻ rét thì có cảm-xúc ấm, còn kẻ ấm thì lại có cảm-xúc
nóng thêm. Vậy thì chỉ tùy chúng-sanh mà thành lạnh hay nóng, không có thật-thể
nhất-định. Ðối với nước cũng vậy, khi chúng ta đang dùng nước tắm gội thân-thể,
nước chảy trên mình mà sinh ra cảm-giác thế này thế khác, gọi là xúc-trần. Nhưng
xét nghiệm kỹ thì khi ta gọi là tắm rữa, ấy là rửa thân-thể hay rửa bụi trần?
Nếu nói là rửa thân-thể, thì như không bụi trần lấy gì để rửa; nếu nói là rửa
bụi trần, thì như nước chảy trên đất cũng gọi là tắm rửa đặng sao? Thế thì nước,
bụi trần, thân-thể vốn thật an-nhiên, nước không phải hay rửa (năng) mà bụi trần
và thân-thể không phải bị rửa (sở), cho nên xúc-trần chỉ là tướng giả-dối,
đối-đãi theo vọng-nghiệp chúng-sanh không xúc mà hiện xúc, nên xúc-trần đều là
như huyễn: phi hữu, phi vô. Ngộ được như vậy mà tu-hành, tức thành bực vô-học.
6. DO PHÁP-TRẦN CHỨNG A-LA-HÁN
Ông Ma-ha Ca-diếp và Tỳ-kheo-ni Tử-kim-quang, liền từ chỗ ngồi, đứng dậy,
đảnh-lễ dưới chân Phật mà bạch rằng:
- Con nhớ kiếp trước, trong thế-giới này có nhiều đức
Phật ra đời hiệu Nhựt-nguyệt-đăng, con được thân-cận nghe pháp tu-học, sau khi
Phật diệt-độ thì cúng-dường xá-lợi, đốt đèn nổi ánh-sáng, lại dùng vàng tử-kim
sáng chói mà thếp hình tượng của Phật. Từ đó đến nay, đời đời thân con thường
được đầy đặn, ánh-sáng như đồng vàng tử-kim, còn Tỳ-kheo-ni Tử-kim-quang này
chính là quyến-thuộc của con, từng đã cùng phát tâm một lúc với con. Con xem
thấy thế-gian sáu trần biến-hoại, nên chỉ đem tâm không-tịch tu-hành, thành
diệt-tận-định. Thân-tâm tự-tại hay vuợt qua trăm ngàn kiếp, dường như khảy móng
tay. Con do quán-sát pháp không-tịc mà thành bậc A-la-hán; đức Thế-Tôn cho con
là người tu-hành đầu-đà bậc nhứt. Diệu-pháp mở sáng, các lậu tiêu trừ. Nay Phật
hỏi viên-thông, thì như chỗ sở-chứng của con, quán pháp trần làm nhơn là hơn cả.
LƯỢC GIẢI
Ông Ma-ha Ca-diếp nhân quán pháp-trần mà ngộ-nhập viên-thông. Pháp-trần
là tất cả ấn-tượng của tiền trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, lưu lại trong tâm
ý mà làm cảnh sở duyên cho ý-thức. Tất cả cảnh-giới thế-gian tóm lại không ngoài
sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ấy. Những pháp đó luôn luôn
biến-chuyển hoặc âm-thầm kín-đáo, hoặc rõ-rệt phô-bày, chứ không niệm nào
yên-lặng dừng nghỉ. Vừa vị-lai đã thành hiện-tại, vừa hiện-tại đã thành quá-khứ;
như vậy hãy chỉ vào đâu mà cho là có pháp thiệt. Chỉ vào vị-lai ư? Hay chỉ vào
quá-khứ, hiện-tại? Thiệt không thể chỉ vào đâu được, pháp-trần đã không thiệt,
pháp-trần là chơn-không, thì các món thọ tưởng, hư-vọng phiền-não, nương
pháp-trần sanh ra cũng liền tiêu-diệt, phá trừ ý-thức, chứng diệt-tận-định. Khi
ấy thân tâm tự-tại, đối với không-gian cũng như đối với thời-gian: không rời chỗ
ngồi mà ở khắp mười phương, vượt trăm ngàn kiếp mà dường như trong giây phút
khảy móng tay, thoát ngoài vòng chướng-ngại của những sự lâu, mau, xa, gần, hạn
cuộc.
Sáu vị trên đây do tu sáu trần mà được
chứng quả.
7. DO NHÃN-CĂN CHỨNG A-LA-HÁN
Ông A-na-luật-đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh-lễ chân Phật mà bạch
rằng:
- Con mới xuất-gia thường ưa ngủ nghỉ, nên bị Như-Lai
quở-trách là loại súc-sanh. Nghe lời Phật quở, con khóc-lóc tự trách, thức suốt
bảy ngày không ngủ, hư cả hai mắt. Ðức Thế-Tôn dạy cho con phép Tam-muội nhạo
kiến chiếu-minh kim-cang. Con không do con mắt mà vẫn xem thấy mười phưong, tánh
chơn rỗng suốt, như xem cái trái trong bàn tay. Như-Lai ấn-chứng cho con thành
bực A-la-hán. Nay Phật hỏi viên-thông, thì như chỗ sở-chứng của con, xoay cái
thấy trở về tánh nguyên, ấy là thứ nhứt.
LƯỢC GIẢI
Ông A-na-luật-đà nhân tu về nhãn-căn, xả bỏ
sắc-trần, xoay cái thấy (hư-vọng) trở về kiến-tỉnh (chơn-tánh) mà thành bậc
vô-học.
Kiến-tánh thường diệu thường minh, nương nơi con mắt mà phát ra cái dụng
thấy sắc gọi là nhãn-căn; kiến-tánh vốn đã diệu minh, cho nên kiến-dụng chẳng
lúc nào không minh không diệu. Chúng-sanh nhiều kiếp mê-lầm không tự nhận biết,
trở lại chấp rằng cái thấy chỉ do con mắt mà có sắc-trần; hễ có sắc-trần thì gọi
rằng có thấy; còn không sắc-trần thì gọi rằng không thấy: mở mắt là thấy, nhắm
mắt là không. Ðã đem tánh thấy viên-dung cùng khắp mà khuôn-khổ một nơi, nên bị
cách ngại, thấy không ngoài sóng mũi, thấy không thấu đặng hai đời. Dẫu khi nhắm
mắt, khi ngủ mê không thấy đã đành, mà khi mở mắt cũng chẳng thấy được sự-thật
của muôn pháp. Trong một đoạn trước, Phật gạn hỏi ông A-Nan về cái thấy là tâm
hay là mắt? Và Ngài đã bảo: Tâm thấy chớ không phải mắt thấy. Ðây Phật chỉ cái
kiến-tánh này cho đến cái văn-tánh, khứu-tánh, v.v… cho chúng-sanh rõ. Thế nên
biết rằng: có mắt không tâm, không thành có thấy; có tâm không mắt cũng thấy
khắp mười phương, ấy gọi là “nhạo kiến chiếu minh”. Kiến-tánh bản-minh đó, xưa
nay không hề lay-chuyển, ấy gọi là kim-cang Tam-muội.
8. DO TỸ-CĂN MÀ CHỨNG A-LA-HÁN
Ông Châu-lợi-bàn-đặc-ca, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh-lễ chân Phật bạch
rằng:
- Con vì thiếu sự tụng-trì, nên tánh-tình ngu độn, khi
mới gặp Phật, nghe pháp xuất-gia, chỉ tụng trì một câu kệ của Như-Lai, mà trong
trăm ngày không, hễ nhớ trước thì quên sau, nhớ sau thì quên trước: Phật thương
con ngu-muội, dạy pháp an-cư, điều hòa hơi thở ra vào; còn liền quán hơi thở đến
vi-tế cùng tột, thấy các hạnh sanh, trụ, dị, diệt từng mỗi sát-na, mà tâm được
rỗng-rang, tự-tại không chút ngăn-ngại; hết các món lậu thành A-la-hán, ở dưới
tòa của Phật, được ấn-chưng thành vô-học đạo. Nay Phật hỏi viên-thông, thì như
chỗ sở-chứng của con, xoay hơi thở trở về tánh không, ấy là thứ nhứt.
LƯỢC GIẢI
Ông Châu-lợi-bàn-đặc-ca (là hai anh em, Tàu dịch là
Ðại-lộ-biên và Tiểu-lộ-biên. Ðây là chỉ ông em) nhân tu tỹ-căn mà chứng-nhập
viên-thông.
Kiếp xưa, ông là một vị Ðại-pháp-sư vì tâm bỏn-sẻn Phật-pháp, không muốn
nói cho ai nghe, nên bị quả-báo ngu-mê thiếu tánh nghe nhiều, hiểu rộng. Nhân đó
Phật mới dạy phương-pháp nhiếp tâm là điều-hòa hơi thở ra vào, đếm từ một đến
trăm, từ trăm đến một; sau khi tâm định-tĩnh, xét cùng-tột đến tướng vi-tế của
hơi thở, thảy đều sanh, trụ, dị, diệt từng mỗi sát-na. Tâm chỉ chú vào hơi thở,
ngoài hơi thở không riêng có sự vật gì, cũng không có tướng hơi thở nữa, bởi vì
hơi thở đã từng sát-na chuyển-biến, hơi thở không có thật-tánh; vậy do tánh
yên-lặng, quán cảnh thanh-tịnh, mà được rỗng-rang sáng-suốt.
9. DO THIỆT-CĂN CHỨNG A-LA-HÁN
Ông Kiều-phạm-bác-đề, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh-lễ chân Phật mà bạch
rằng:
- Con bị khẩu-nghiệp nặng-nề; trong kiếp quá-khứ đã
chê-bai vị Sa-môn, nên đời đời mắc bịnh, miệng thường nhơi như trâu. Ðức Như-Lai
dạy cho pháp-môn Nhứt-vị thanh-tịnh tâm-địa; con nhân đó mà tâm được tịch-diệt
và tam-ma-địa, quán-sát cái tánh biết vị không phải thân, cũng không phải vật;
liền trong miệng ấy, vượt bỏ các lậu thế-gian, bề trong giải-thoát thân-tâm, bề
ngoài không dích-mắc thế-giới, xa-lìa ba cõi như chim ra khỏi lồng, tiêu hết các
món trần-cấu, nên đặng con mắt pháp thanh-tịnh, thành A-la-hán. Ðức Như-Lai
ấn-chứng cho con thành vô-học đạo. Nay Phật hỏi viên-thông, thì như chỗ sở-chứng
của con, xoay về quán-sát tánh biết vị ấy là thứ nhất.
LƯỢC GIẢI
Ông Kiều-phạm-bác-đề (Tàu dịch là Ngưu-tử) nhân tu thiệt-căn mà
chứng-nhập viên-thông. Trong một kiếp quá-khứ, ông từng buông lời chê-bai vị lão
Tăng, nên nhiều đời mắc lấy cái tật miệng thường nhơi suông như trâu.
Phật thuyết-pháp lúc nào cũng tùy căn-cơ, tùy tập-quán chúng-sanh cả; nên
Ngài đã tùy tập-quán của ông, mà dạy cho pháp-môn nhứt vị thanh-tịnh tâm-địa;
nghĩa là quán cái tánh biết vị khắp hiện nơi thiệt-căn, vốn thường thanh-tịnh,
không phải đối-đãi giả-dối, không thay-đổi theo mặn, đắng, ngọt, cay, nên gọi là
nhứt vị. Ðã vậy, thì cái tánh biết vị ấy không phải là thiệt-căn và không phải
là vị-trần; vì chẳng phải trần nên chẳng phải vô-tri, mà chẳng phải căn nên
không giả-dối; vì vậy, các món dục-lậu, hữu-lậu, vô-minh-lậu, trong thế-gian
không thể ô-nhiễm buộc-ràng; tuy ở trong ba cõi, mà vốn xa-lìa ba cõi, như chim
ra khỏi lồng, thông-dung tự-tại, thấy biết rộng xa. Ấy gọi là Pháp-nhãn
thanh-tịnh thành A-la-hán, không còn thọ-sanh trong vòng luân-hồi sanh-tử.
10. DO THÂN-CĂN CHỨNG A-LA-HÁN
Ông Tất-lăng-già-bà-ta liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đầu lạy chân Phật mà
bạch rằng:
- Lúc con mới xuất-gia theo Phật nhập đạo, thường nghe
đức Như-Lai dạy những điều thống-khổ trong thế-gian; con đi khất-thực trong
thành, để tâm tư niệm pháp-môn đó, bất-giác giữa đường đạp nhằm gai độc, chân bị
thương, sự đau nhức khắp cùng thân-thể. Con liền nghĩ rằng: Có tánh biết mới
biết sự đau nhức đó. Tánh biết ấy chính là giác tâm thanh-tịnh, tuy biết cái
“biết đau” mà nó không phải bị đau. Con lại suy-nghĩ: Nếu như vậy thì một thân
lẽ nào lại có hai tánh biết? Con nhiếp niệm chưa bao lâu, thân tâm bỗng-nhiên
không-tịch; trong hai mươi mốt ngày thì các lậu tập tiêu-diệt hết, thành quả
A-la-hán, được Phật ấn-ký, chứng bậc vô-học. Nay Phật hỏi viên-thông, thì như
chỗ sở-chứng của con, là xả bỏ thân chấp, thuần một giác-tánh, ấy là thứ nhứt.
LƯỢC GIẢI
Ông Tất-lăng-già-bà-ta (Tàu dịch là Dư-tập) nhân tu thân-căn mà ngộ-nhập
viên-thông. Giác-tâm thanh-tịnh vốn thường bất-biến, hàm-dung không có năng-sở,
không có trong ngoài, không bị khổ vui làm lay-động; chúng-sanh nhơn mê, khởi ra
vọng-tưởng phân-biệt, chấp có ngoại cảnh, có nội thân, cuộc tánh biết nơi
thân-căn làm nơi y-chỉ, mà lãnh nạp các cảnh thuận nghịch giữa thế-gian. Vì vậy
nên không tránh được các món khổ. Ông Tất-lăng-già-bà-ta nghe theo lời Phật,
quán khổ-đế giữa thế-gian trong khi đi khất-thực, bấc-giác chân đạp nhầm gai
độc, đau buốt toàn thân, mà càng chứng rõ khổ-đế một cách thống-thiết. Nhân đau
nhứt mà phát suy-nghĩ: tự mình biết mình đang đau; vậy đã có cái đau lại có cái
đau; đau là cái biết hư-vọng nơi thân-căn, tùy nhân-duyên ngoại-cảnh mà
phát-hiện có năng có sở; chữ “biết đau” chính là chỉ giác-tâm thanh-tịnh, ra
ngoài có không, dù đau hay không đau cũng không thể làm tăng giảm. Ngặt vì trong
lúc tâm ngã pháp chưa tiêu, nên tướng năng sở vẫn còn hiện-tiền, cần phải nhiếp
niệm vậy, sau mới không cả thân tâm, đoạn trừ năng sở, không thấy có cái tướng
đau, không thấy cái tướng bị đau, chỉ thuần một giác-tâm thanh-tịnh. Lúc ấy,
chẳng những giác tức là giác, mà mê cũng tức là giác; tánh giác hoàn-toàn
viên-mãn không còn bị điều chi ô-nhiễm.