BÀI THỨ
SÁU
PHẦN CHÁNH
TÔN
(tiếp theo)
26.
PHẬT NÓI CÔNG-ÐỨC THỌ-TRÌ KINH KIM-CANG BÁT-NHÃ
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Nếu có người tự đem thân mạng mình, nhiều như cát sông Hằng để bố-thí,
thì người đó có phước-đức nhiều lắm. Nhưng nếu có người thọ trì đọc tụng hoặc
giảng dạy kinh này, trọng quyển hay nửa quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu kệ,
thì phước đức người này nhiều hơn người trước”.
LƯỢC
GIẢI
Kinh này quí báu và lợi-ích vô cùng, nên Phật đã nhiều lần tán-thán công-đức, khuyên
người thọ trì và giảng dạy cho ngườ. Từ trước đến đây đã năm lần nói về công-đức
của kinh này.
Ðoạn trước (19) nói, người dùng ngoại tài là 7 món báu, nhiều như số cát sông Hằng
đem bố-thí, phước đức của người này tuy nhiều, nhưng không bằng người thọ trì và
giảng dạy kinh Kim-Cang Bát-Nhã phước đức lại nhiều hơn.
Ðoạn này nói, người đem nội tài là thân mạng của mình ra bố-thí; chỉ bố-thí một
thân mạng phước đức đã nhiều và ít ai làm được, huống chi là bố-thí thân mạng của
mình nhiều như số cát sông Hằng, thì phước đức biết là bao nhiêu!
Nhưng nếu có người thọ trì đọc tụng hoặc giảng dạy kinh này từ một quyển, hay nửa
quyển cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì người này phước đức nhiều hơn người trước.
Bố-thí thân mạng, tuy ít người làm được, nhưng phước đức vẫn còn ở trong vòng hữu-vi
và hữu-lậu. Người thọ trì đọc tụng hoặc giảng dạy kinh này, thì mình và người
đều được ngộ nhập “Kim-Cang Bát-Nhã” và sẽ được thành Phật; rồi trở lại hóa độ vô
số chúng-sanh, nên phước đức của người này, thuộc về vô-lậu vô-vi, nhiều hơn người
trước.
Nói về công-đức thọ trì kinh này, Ngài Trí-Giả Ðại-sư có làm bài tụng:
Nguyên văn (dịch âm):
Hằng sa số thậm đa
Sa số cách nan lương
Cử sa tề thất bảo
Năng trì bố-thí tương
Hữu tướng giai vi huyễn
Ðồ ngôn trí-huệ cường
Nhược luận tứ cú kệ
Thử phước mạt vi trường!
Dịch nghĩa:
Kể sông Hằng đã quá
Số cát lại nhiều hơn
Chứa báu nhiều như thế
Thí tài số biết bao
Chấp mê theo giả tướng
Dầu đặng phước huệ cao
Sánh với bốn câu kệ
Phước kia có chút nào!
ÐẠI
Ý BÀI TỤNG
Chỉ đếm sông Hằng đã không hết, huống chi là đếm số cát trong vô số sông Hằng.
Người đem của báu nhiều bằng số cát trong vô số sông Hằng ra bố-thí, phước đức tuy
nhiều, nhưng thuộc hữu-vi, hữu-lậu.
Không bằng người thọ trì hoặc giảng dạy kinh này chừng bốn câu, thì phước đức nhiều
hơn người trước.
27.
ÔNG TU-BỒ-ÐỀ BÙI-NGÙI CẢM-ÐỘNG RƠI NƯỚC MẮT
Sau khi thấy
Phật nhiều lần ân-cần, nhắc nhở khuyên dạy, ông Tu-Bồ-Ðề nghe hiểu được nghĩa lý
thâm-thúy của kinh này, nên lúc bấy giờ, ông cảm-động bùi-ngùi và sa nước mắt!...
Ông Tu-Bồ-Ðề bạch Phật rằng:
-
Bạch Thế-Tôn! Con tuy đặng huệ-nhãn đã lâu, nhưng chưa từng nghe được Phật
nói kinh-điển, nghĩa lý cao-siêu, huyền-diệu, quí hóa như thế này!
LƯỢC
GIẢI
Chúng ta mỗi khi bị xúc-cảm một việc gì quá mạnh, hoặc buồn hay vui, đều có rưng
nước mắt. Ông Tu-Bồ-Ðề vì thấy Phật đã nhiều lần ân-cần nhắc nhở thọ trì và
khuyên dạy những nghĩa lý thâm-thúy cao-siêu của kinh này, mà từ hồi nào đến giờ
ông chưa từng được nghe, nên ông cảm-động rơi nước mắt.
28.
NGƯỜI NGHE KINH NÀY SANH LÒNG TIN, NGƯỜI ẤY ÐƯỢC CÔNG-ÐỨC THỨ NHỨT
Ông Tu-Bồ-Ðề
thưa Phật:
-
Bạch Thế-Tôn! Nếu có người nghe kinh này, sanh lòng tin trong sạch, ngộ được
thật-tướng (tánh Bát-Nhã) thì người ấy sẽ đặng thành-tựu công-đức hy-hữu thứ nhứt.
-
Bạch Thế-Tôn! Như-Lai nói “thật tướng”, tức không phải “thật tướng”, chỉ tạm
gọi là “thật tướng”.
LƯỢC
GIẢI
Ðoạn này ông Tu-Bồ-Ðề nói: người nghe kinh này mà ngộ được “thật tướng Bát-Nhã”,
thì người ấy đặng công-đức hy-hữu. Và ông phá luôn cái chấp “thật tướng”.
Người có cái khiếu (theo Duy-thức học gọi là hạt giống) âm nhạc, nghe âm-nhạc mới
biết hay. Người có cái khiếu thi thơ, nghe thi thơ mới biết thích. Cũng
thế, người có cái khiếu hay hạt giống Bát-Nhã, nghe đến kinh Bát-Nhã mới sanh lòng
tin và ngộ nhập được “Thật tướng Bát-Nhã”. Bởi thế nên người này được công-đức
vô lượng.
Vừa nói đến “thật tướng”, ông Tu-Bồ-Ðề sợ người chấp “thật tướng”, nên ông liền
phá luôn cái chấp ấy, bằng cách dẫn lời Phật dạy: “Như-Lai nói thật tướng, tức là
không phải thật tướng, chỉ tạm gọi là thật tướng”.
GIẢI
DANH TỪ
THẬT TƯỚNG: Phật nói “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, (phàm cái gì
có hình tướng đều là hư vọng).
Vậy thì cái không hình tướng mới là chơn thật. Kinh chép: “Vô tướng chi tướng,
cố danh thật tướng”, (cái tướng mà không có hình tướng mới gọi là thật tướng).
Căn cứ theo lời giải-thích này, thì “thật tướng” là không còn các vọng-tướng và
vọng-chấp, tức là “Bát-Nhã Chơn-Không”.
29.
NGƯỜI CÓ HẠT GIỐNG BÁT-NHÃ MỚI TIN VÀ HIỂU ÐƯỢC KINH NÀY
Ông Tu-Bồ-Ðề
thưa:
-
Bạch Thế-Tôn! Hiện nay con nghe đặng kinh này, hiểu được tin được và thọ-trì,
chẳng lấy làm khó. Khi Ðức Như-Lai nhập diệt, 500 năm về sau, nếu có người
nghe kinh này, mà hiểu ngộ, tin theo và thọ-trì, thì người đó mới là hy-hữu!
-
Tại sao vậy? Vì người này không còn chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng-sanh
và thọ-giả.
-
Bạch Thế-Tôn! Nói bốn tướng, không phải thật có bốn tướng, chỉ giả gọi bốn
tướng là ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả. Tại sao vậy? Vì phải xa lìa
tất cả các chấp tướng, mới gọi là chư Phật.
LƯỢC
GIẢI
Ðoạn này tiếp với đoạn trên, nói người có hạt giống trí-huệ Bát-Nhã, phá trừ được
bốn tướng, mới tin và hiểu được kinh này.
Khi Phật còn tại thế, chúng-sanh căn-tánh Ðại-thừa rất nhiều, nên nghe kinh này
hiểu và tin không khó. Ðến sau khi Phật nhập-diệt, chúng-sanh căn tánh Ðại-thừa
rất ít, nên nghe hiểu và tin được kinh này rất khó. Vì người nghe phải không
còn chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ giả, mới hiểu được kinh Kim-Cang
Bát-Nhã này.
Nói đến bốn tướng, ông Tu-Bồ-Ðề sợ người chấp thật có bốn tướng, nên ông liền bác
rằng: “Nói bốn tướng, không phải có thật bốn tướng, chỉ giả gọi bốn tướng mà thôi”.
Kết-luận, ông nói rằng: “Phải rời tất cả các vọng chấp, vọng tướng, ngộ nhập
Kim-Cang Bát-Nhã, mới gọi là chư Phật”.
Ngài Cảo Thiền-sư, ngộ được câu: “Lìa tất cả các vọng chấp, mới là chư Phật”, nên
có làm hai bài tụng rằng:
Nguyên văn (dịch âm):
Thân khẩu ý thanh tịnh
Thị danh Phật xuất thế
Thân khẩu ý bất tịnh
Thị danh Phật diệt độ.
Tức tâm thị Phật vô dư Pháp
Mê giả đa ư tâm ngoại cầu
Nhứt niệm quách nhiên qui bổn tế
Hoàn như tẩy khước thượng thuyền đầu.
Dịch nghĩa:
Thân, khẩu, ý thanh tịnh
Ðó là Phật xuất thế
Thân, khẩu, ý bất tịnh
Ðó là Phật nhập diệt.
Tức tâm là Phật, Phật tại tâm
Kẻ mê rong ruổi, ngoại tâm cầu
Nhứt niệm giác-ngộ về đến Phật
Dễ như rửa chân bước lên thuyền.
ÐẠI
Ý HAI BÀI TỤNG
Ba nghiệp: thân, miệng và ý đều thanh tịnh, đó là Phật xuất thế. Trái
lại, ba nghiệp không thanh tịnh tức là Phật nhập diệt. Phật tức là tâm, tâm
tức Phật. Người mê muội không biết, lại tìm Phật ngoài tâm. Nếu trong
nhứt niệm mà tâm được giác ngộ thì tức thành Phật; rất dễ như người rửa chân bước
lên thuyền.
30.
PHẬT XÁC-NHẬN LỜI NÓI CỦA ÔNG TU-BỒ-ÐỀ LÀ PHẢI
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Ðúng vậy. Nếu có người nghe kinh này mà không nghi-ngờ hay
kinh sợ, thì người này rất là hy-hữu.
LƯỢC
GIẢI
Ðoạn này vẫn còn tiếp với hai đoạn trên văn trên, Phật xác-nhận lời nói của ông
Tu-Bồ-Ðề là phải: Người có hạt giống Kim-Cang Bát-Nhã, không chấp các tướng
mới hiểu và tin được kinh này.
31.
PHẬT PHÁ CÁI CHẤP: “BÁT-NHÃ LÀ ÐỆ-NHỨT BA-LA-MẬT”
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Như-Lai nói Bát-Nhã là đệ nhứt Ba-la-mật, không phải Bát-Nhã là
đệ nhứt Ba-la-mật, thế mới thật Bát-Nhã đệ nhứt Ba-la-mật.
LƯỢC
GIẢI
Ðoạn này Phật phá cái chấp “Bát-Nhã là pháp Ba-la-mật thứ nhứt”. Ðây là lần
thứ hai, Phật phá chấp Bát-Nhã Ba-la-mật (lần thứ nhứt ở đoạn 22).
Trong 6 pháp Lục-độ, tức là 6 pháp Ba-la-mật, thì Trí-huệ Bát-Nhã là bao trùm tất
cả, nên Phật nói: “Bát-Nhã là đệ nhứt Ba-la-mật”.
Nhưng, nếu có người còn chấp mình đặng “Bát-Nhã là đệ nhứt Ba-la-mật” (chấp pháp)
thì không phải thật đặng “Bát-Nhã là đệ nhứt Ba-la-mật” nữa, vì còn chấp ngã (mình
đặng) chấp pháp (Ba-la-mật). Bởi thế nên Phật dạy tiếp: “Không còn thấy (chấp)
mình đặng Bát-Nhã là đệ nhứt Ba-la-mật, thì mới thật đặng Bát-Nhã đệ nhứt Ba-la-mật”.
GIẢI
DANH TỪ
Bát-Nhã: (đã giải ở trước,
đề-mục kinh).
Ba-la-mật: (đã giải ở trước,
đề-mục kinh).
32.
PHẬT PHÁ CÁI CHẤP: “NHẪN-NHỤC LÀ BA-LA-MẬT”
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Như-Lai nói người Nhẫn-nhục Ba-la-mật (rốt-ráo) mà không thấy mình
Nhẫn-nhục Ba-la-mật, như thế mới thật là Nhẫn-nhục Ba-la-mật.
LƯỢC
GIẢI
Ðoạn này Phật phá cái chấp “người tu Nhẫn-nhục Ba-la-mật, mà còn chấp mình đặng
Nhẫn-nhục Ba-la-mật”.
Nếu hành-giả tu hạnh nhẫn-nhục rốt-ráo (Ba-la-mật) mà còn chấp mình tu hạnh nhẫn-nhục
rốt-ráo, tức nhiên hành-giả còn chấp chơn (người làm nhục), chấp ngã (ta bị nhục)
thì chưa phải là nhẫn-nhục rốt-ráo. Hành-giả phải lìa tất cả vọng chấp: nhơn,
ngã, bỉ, thử v.v… nhập Kim-Cang Bát-Nhã, mà tu pháp nhẫn-nhục, thì pháp nhẫn-nhục
đó mới hoàn toàn rốt-ráo, gọi là nhẫn-nhục Ba-la-mật.
33.
PHẬT NÓI TIỀN THÂN CỦA NGÀI LÀ MỘT VỊ TIÊN-NHƠN TU NHẪN-NHỤC BA-LA-MẬT
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Về quá-khứ, ta làm vị Tiên-nhơn tu hạnh nhẫn-nhục đến 500 đời.
Bị vua Ca-Lợi cắt xẻo thân-thể từng đoạn, nhưng ta không sân hận; vì ta không còn
chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả.
LƯỢC
GIẢI
Ðoạn này tiếp theo đoạn trên (32) nói về việc tu hạnh nhẫn-nhục Ba-la-mật.
Muốn giải-thích rõ ràng: thế nào là “Nhẫn-nhục rốt ráo” (Nhẫn-nhục Ba-la-mật), Phật
dẫn chứng bằng điển-hình, là tiền-thân Ngài làm vị Tiên-nhơn tu hạnh Nhẫn-nhục.
Bị vua Ca-Lợi cắt xẻo thân thể ra từng mảnh, nhưng Ngài không hề sân hận.
Vì Ngài không còn chấp bốn tướng: ngã, nhơn v. v… nên mới đặng Nhẫn-nhục rốt-ráo
(Nhẫn-nhục Ba-la-mật).
Sách chép, một hôm vua Ca-Lợi dẫn cung phi mỹ nữ lên núi để yến tiệc. Sau
buổi yến tiệc say sưa, vua nằm nghĩ, các cung phi lén vua đi dạo núi.
Qua một đồi khác, thấy một vị Tiên-nhơn ngồi tu dưới một gốc cây đại-thọ, các cung
phi rũ nhau đến chiêm bái.
Sau khi thức dậy, không thấy cung phi, vua liền đi tìm. Ðến một đồi núi, thấy
các cung phi đang ngồi xoay quanh hỏi đạo vị Tiên-nhơn dưới một gốc cây cổ thụ,
vua tức giận hỏi:
-
Người là ai mà dám quyến-rũ cung phi mỹ nữ của ta?
-
Tôi là Tiên-nhơn tu hạnh Nhẫn-nhục rốt ráo.
-
Có thật không?
-
Thật, tôi tu Nhẫn-nhục rốt ráo (Ba-la-mật). Vua liền rút gươm xẻo mũi, lóc
tai, chặt tay v. v… vị Tiên-nhơn, mà không thấy vị Tiên-nhơn có chút gì phản-ứng
hay sân hận v. v…
Sau cơn nóng
giận, vua hối-hận và hỏi:
-
Có lẽ vì thế lực của nhà Vua nên Tiên-nhơn Nhẫn-nhục, không dám chống lại, chứ trong
tâm làm sao khỏi buồn giận?
Tiên-nhơn thề
rằng: Nếu tôi không thiệt tu Nhẫn-nhục rốt-ráo, trong tâm còn chút giận hờn,
thì tôi chết luôn theo với tay chân bị cắt xẻo; trái lại, nếu tôi thật tu Nhẫn-nhục
rốt-ráo, tâm không sân hận, thì tay chân của tôi bị cắt, đều hoàn y-nguyên trở lại
như xưa.
Lời thệ của Tiên-nhơn vừa dứt, thì mũi, tai thân thể của Tiên-nhơn đều hoàn lại
như trước. Vua hết sức ăn-năn sám-hối tội lỗi của mình và thỉnh cầu Tiên-nhơn
tha thứ.
Tiên-nhơn đã không hờn giận, lại còn phát nguyện: “Sau khi đắc đạo, ta sẽ độ người
trước”.
34.
BỒ-TÁT PHÁT TÂM BỒ-ÐỀ PHẢI XA-LÌA TẤT CẢ CÁC VỌNG CHẤP
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, phải xa-lìa tất cả các chấp tướng.
Bồ-tát không nên sanh tâm trụ-chấp nơi sắc-trần, thinh-trần, hương-trần, vi-trần,
xúc-trần và pháp-trần v. v…
-
Nói tóm lại, Bồ-tát đừng sanh vọng tâm trụ-chấp một nơi nào cả. Nếu Bồ-tát
tâm còn trụ-chấp một nơi nào, thì không phải thật an trụ chơn-tâm.
LƯỢC
GIẢI
Ðây là lần thứ hai (lần thứ nhứt ở đoạn 17), Phật dạy các vị Bồ-tát đừng sanh vọng-tâm
trụ chấp một nơi nào.
Tâm Bồ-đề là tâm Phật (xem đoạn 2). Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, phải xa lìa tất
cả các vô-minh vọng chấp: Không chấp ngã, chấp nhơn, chấp chúng-sanh, thọ-giả,
không chấp 6 căn, 6 trần và 6 thức v.v… nói chung là không chấp ngã chấp pháp.
Khi các vọng chấp hết rồi, thi tâm Bồ-đề hay tánh Bát-Nhã v.v… hiện ra. Ðó
là “hàng-phục vọng-tâm và an-trụ chơn-tâm”.
Nếu tâm còn có chỗ trụ-chấp, tức là tâm còn vọng-động; tâm còn vọng-động thì trụ
nơi điên-đảo, chứ không phải an trụ chơn-tâm hay tánh Bát-Nhã. Bởi thế nên
Phật dạy: “Nếu Bồ-tát tâm còn trụ chấp một nơi nào, thì không phải thật an trụ chơn-tâm”.
Ngài Xuyên Thiền-sư làm bài tụng, nói về việc không trụ chấp nơi sắc, thinh, hương
v.v…
Nguyên văn (dịch âm):
Kiến sắc phi can sắc
Văn thinh bất thị thinh
Sắc thinh vô ngại xứ
Thân đáo pháp-vương thành.
Dịch nghĩa:
Thấy sắc không mê sắc
Nghe tiếng chẳng nhiễm tiếng
Sắc tiếng đều không ngại
Mới đến Pháp-vương thành.
ÐẠI
Ý BÀI TỤNG
Trong khi sáu giác quan tiếp xúc với sáu trần cảnh, mà không khởi vọng niệm phân
biệt, nhiễm ô mê hoặc (trụ chấp) nơi trần cảnh, thì hành-giả sẽ được vào cảnh giới
Phật (thành Pháp-vương).
35.
BỒ-TÁT BỐ-THÍ HAY LÀM CÁC VIỆC LỢI-ÍCH CHÚNG SANH ÐỀU KHÔNG NÊN CHẤP TƯỚNG
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Bồ-tát khi bố-thí hay làm các việc lợi-ích cho tất cả chúng-sanh,
không nên sanh tâm trụ-chấp các tướng (mình bố-thí, ngưòi thọ thí, vật bố-thí).
-
Tu-Bồ-Ðề! Như-Lai nói các tướng không phải thật các tướng (các pháp) chỉ giả
gọi các tướng. Như-Lai nói chúng-sanh, không phải thật chúng-sanh, chỉ giả
gọi chúng-sanh.
LƯỢC
GIẢI
Ðây là lần thứ hai (lần thức nhứt về đoạn 4). Phật dạy các vị Bồ-tát bố-thí
hay làm các việc lợi-ích chúng-sanh, đều không nên chấp tướng (xem đoạn 4 ở trước).
Hành-giả khi làm lợi-ích các chúng-sanh, mà tâm còn trụ chấp các tướng, nghĩa là
còn thấy mình bố-thí, người thọ thí và vật bố-thí, tất nhiên hành-giả còn chấp ngã
(mình, người), chấp pháp (vật bố-thí), thì hành-giả chỉ được phước báu hữu-lậu nhiễm-ô,
nên không phải là bố-thí Ba-la-mật (bố-thí rốt-ráo).
Bởi thế nên Phật dạy các vị Bồ-tát, khi bố-thí hay làm lợi-ích cho các chúng-sanh,
phải nhập Kim-Cang Bát-Nhã mà làm; nghĩa là không có chấp các tướng; ngã, nhơn,
chúng-sanh, thọ-giả thì được phước-đức vô-lậu thanh-tịnh. Bố-thí như vậy,
mới phải là bố-thí Ba-la-mật (bố-thí rốt-ráo).
Ðoạn trước nói về Nhẫn-nhục, đoạn này nói về bố-thí. Muốn giúp cho quí vị
Phật-tử hiểu thêm và để thật hành, thế nào là “nhẫn-nhục rốt-ráo” và thế nào là
“bố-thí rốt-ráo”, chúng tôi xin nói thêm một thí dụ như sau.
Hành-giả muốn đặng Nhẫn-nhục Ba-la-mật hay bố-thí Ba-la-mật, thì phải quán chúng-sanh
và mình đồng một bản-thể, mới không thấy ta có bố-thí và chúng-sanh thọ thí, hay
người làm nhục và ta thọ nhục.
Thí dụ như tay mặt với tay trái, đồng thấy chúng một thân, nên khi tay mặt lỡi làm
tổn thương tay trái, (đóng đinh trợt tay) tay trái không giận. Vì tay trái
tự nhận mình cùng với tay mặt đồng một thân, nên tay trái không thấy có tay mặt
làm nhục và mình bị nhục. Nhẫn-nhục như thế mới là Nhẫn-nhục rốt-ráo (Nhẫn-nhục
Ba-la-mật).
Trái lại, tay mặt lo lấy bông gòn và thuốc để băng bó cho tay trái, nhưng nó không
kiêu hảnh, vì tay mặt cũng tự nhận mình cùng với tay trái đồng một thân, nên nó
không thấy mình (tay mặt) là người ban ơn và tay trái là kẻ thọ ơn. Bố-thí
như thế, mới là bố-thí rốt-ráo (Bố-thí Ba-la-mật).
36.
NHƯ-LAI NÓI THẬT, KHÔNG NÓI DỐI
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Như-Lai nói thật, nói chơn-chánh, không nói dối, không nói sai khác.
Như-Lai có đắc pháp, nhưng pháp ấy không thật không hư.
LƯỢC
GIẢI
Ðến thời Bát-Nhã, thì Phật phá hết các vọng chấp từ lâu của chúng-sanh, để chúng-sanh
tiến lên một bực cao hơn nữa. Vi thế nên về phần lý thuyết cũng như phần tinh-thần
của thời kinh Bát-Nhã, rất lạ-lùng hơn các thời thuyết pháp khác.
Sợ chúng-sanh nghi-ngờ lời Phật nói không chơn thật, khi nói vầy, khi nói khác,
thay đổi không chừng, nên Phật gọi ông Tu-Bồ-Ðề dạy rằng: “Như-Lai nói thật,
nói chơn chánh, không nói dối, không nói sai khác”.
Ðức Như-Lai được đạo Bồ-đề, nhưng nếu chấp đạo Bồ-đề này là hư hay là thật thì không
phải là Bồ-đề. Vì thế nên Phật dạy: “Như-Lai có đắc pháp, nhưng pháp
ấy không thật không hư”.
37.
CHẤP TƯỚNG BỐ-THÍ NHƯ VÀO NHÀ TỐI, VÔ-TƯỚNG BỐ-THÍ NHƯ ÐI BAN NGÀY
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Nếu Bồ-tát bố-thí mà tâm còn trụ chấp nơi pháp bố-thí, thì như người
vào tối, không thấy gì cả. Trái lại, nếu Bồ-tát bố-thí mà tâm không trụ chấp
nơi pháp bố-thí, thì cũng như người có mắt sáng tỏ, lại nhờ ánh sáng của mặt nhựt
chiếu soi, được thấy tất cả mọi vật.
LƯỢC
GIẢI
Ðây là lần thứ ba (lần thứ nhứt và hai ở đoạn 4 và 35), Phật dạy Bồ-tát bố-thí không
nên chấp tướng bố-thí.
Người bố-thí, nếu còn chấp tướng, nghĩa là còn thấy ta là người ban ơn, kia là kẻ
thọ ơn, đó là vật bố-thí, thì bị mây vô-minh ngã, pháp che mờ trí-huệ Bát-Nhã, nên
Phật thí dụ: “Như người đi vào nhà tối không thấy gì cả”.
Trái lại, nếu bố-thí mà không chấp tướng, trong kinh gọi là “tam luân không tịch”;
nghĩa là không thấy mình bố-thí (ban ơn), người thọ thí (thọ ơn) và vật bố-thí (xem
thí dụ tay mặt bó tay trái trái ở đoạn 35) thì mây vô-minh ngã, pháp đều hết, nên
mặt trời trí-huệ Bát-Nhã hiện ra, chiếu soi khắp tất cả các pháp. Bởi thế
nên Phật nói: “Như người có mắt sáng tỏ, lại nhờ ánh sáng của mặt nhựt chiếu soi,
được thấy mọi vật”.