BÀI THỨ HAI
CHÁNH VĂN
Hỏi: Trên đã lược nói cái
“tên”, nhưng chưa nói rõ cái “tướng” của thức năng-biến; vậy cái “tướng” của thức
năng-biến thứ nhứt thế nào?
Ðáp: NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN
TỤNG VIẾT:
Sơ A-lại-thức
Dị-thục, Nhứt thế chủng.
DỊCH NGHĨA
Luận-chủ nói tụng (10 câu) để trả lời rằng: Thức Năng-biến thứ nhứt tên là
A-lại-da, cũng gọi là Dị-thục thức hay Nhứt-thế-chủng thức.
LƯỢC GIẢI
Thức Năng-biến thứ nhứt có
ba tướng:
I. Tự-tướng
(thể).
Tiếng Phạn gọi là “A-lại-da”, Tàu dịch là “Tàng”. Chữ Tàng có ba nghĩa:
1.
Năng-tàng: Thức này có công-năng chứa tất cả chủng-tử (hạt giống) của các
Pháp thiện ác; cũng như cái kho có công-năng chứa lúa.
2.
Sở-tàng: Thức này là chỗ để chứa chủng-tử của các pháp; cũng như cái kho là
chỗ để chứa lúa.
3.
Ngã ái chấp tàng: Thức này thường bị thức thứ Bảy ái-luyến chấp làm ngã.
Nó như người giữ kho, giữ-gìn chẳng cho lúa mất (chấp tàng).
II. Quả-tướng
(quả).
Gọi là “Dị-thục thức”.
Chữ Dị-thục có ba nghĩa:
1.
Dị thời nhi thục:
Khác thời mà chín. Dụ như trái xoài, từ khi sanh cho đến khi chín, thời-gian
khác nhau.
2.
Dị loại nhi thục:
Khác loài mà chín. Dụ như trái xoài, khi nhỏ tánh chua, đến chín lại ngọt.
3.
Biến dị nhi thục:
Biến đổi khác chất mà chín. Dụ như trái xoài, khi nhỏ thì xanh, đến khi già
chín biến đổi lại vàng.
Vì thức Dị-thục này lãnh thọ thân quả-báo, nên gọi là Dị-thục quả. Tánh-chất
của Dị-thục quả là vô-ký (không nhứt định thiện hay ác); song về nghiệp-nhơn đời
trước của nó, lại có thiện và ác.
Bởi lấy nghiệp-nhơn (thiện, ác) đối với quả (vô-ký) mà nói, nên có 3 nghĩa:
Khác thời-gian chín (Dị thời nhi thục), khác loại chín ( Dị loại nhi thục) và biến
đổi chín (Biến dị nhi thục).
1. Dị thời …
Di-thục 2. Dị loại …
nhi thục (Quả vô-ký)
3. Biến dị …
Nhơn (thiện, ác)
III. Nhơn-tướng
(nhơn).
Gọi là Nhứt-thế-chủng thức. Tất cả các pháp hiện-tượng (hiện hành) trong thế-gian
và xuất-thế-gian, đều có chủng-tử (công-năng tiềm tàng) của nó. Các chủng-tử
này đều chứa trong thức thứ Tám (Tàng-thức). Các chủng-tử là “nhơn”, khởi
hiện ra các Pháp là “quả”. Vì theo “nhơn tướng” (chủng-tử), nên gọi thức này
là “Nhứt-thế-chủng”.
NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN
Bất khả tri chấp thọ
Xứ liễu thường dữ xúc
Tác-ý thọ tưởng tư
Tương-ưng duy xả thọ.
DỊCH NGHĨA:
Không thể biết hành-tướng năng-duyên và công-năng giữ-gìn chủng-tử, lãnh thọ thân
thể và thế-giới của thức này được. Thức này thường tương-ưng với năm món biến-hành
là: xúc, tác-ý, thọ, tưởng và tư. Song trong các thọ, nó chỉ tương-ưng với
xả-thọ.
LƯỢC GIẢI
Hành-tướng thức Năng-biến thứ nhứt rất là tế-nhị! Bởi người đời tâm thô không
thể biết được, nên nói “bất khả tri”.
Những việc của thức này mà người đời không thể biết được, có hai phần:
1.
Thức này giữ-gìn chủng-tử, thế-giới, thân-thể và làm cho thân-thể sanh ra cảm-giác,
lãnh-thọ; nghĩa là thức thứ Tám này biến-hiện ra thế-giới và chúng-sanh rồi giữ-gìn
không cho mất; đây là điều khó biết thức nhứt.
2.
Hành-tướng năng-duyên (liễu) của thức này, rất là sâu-xa và tế-nhị; đây là điều
khó biết thứ hai.
Không thể biết:
1.
Kiến-phần năng-duyên của thức này (liễu).
2.
Tướng-phần bị duyên của thức này.
a.
Chủng-tử - chấp thọ.
b.
Thân-thể - chấp thọ.
c.
Thế-giới - (xứ).
Tám thức, phân làm ba món năng-biến, đều có quyền tự-chủ, tự-tại; cũng như vị Quốc-vương,
nên gọi là Tâm-vương. Song vị Quốc-vương phải có quần-thần phụ-tá, thì mới
có thể giữ nước trị dân. Tâm-vương cũng phải có bộ-hạ tùy-tùng để giúp-đỡ
mới hay tạo ra các nghiệp. Những bộ-hạ tùy-tùng ấy lệ-thuộc Tâm-vương, không
được tự-tại, nên gọi “Tâm-sở”, hoặc gọi là “Tâm-sở-hữu”; nghĩa là cái sở-hữu của
Tâm-vương.
Lại nữa, Tâm-sở đã giúp Tâm-vương tạo nghiệp, thì Tâm-vương với Tâm-sở phải ưng-thuận
với nhau nên gọi là tương-ưng.
Hỏi: Có mấy Tâm-sở tương-ưng
với thức này?
Ðáp: Chỉ có năm món biến-hành
thường tương-ưng với thức này là: Xúc, Tác-ý, Thọ, Tưởng và Tư.
XÚC:
Tiếp-xúc. Như con mắt xem hoa, khi mới vừa tiếp-xúc với hoa; đó là tác-dụng
của Xúc Tâm-sở. Thí như hai người đồng đi một con đường: một người đi từ phương
Ðông đến phương Tây, một người đi từ phương Tây đến phương Ðông; hai người gặp nhau
một chỗ, gọi đó là Xúc.
Một thí-dụ nữa, như môn Kỷ-hà-học: trên cái hình tròn gạch qua một đường, chỗ đụng
nhau một điểm trên đường gạch, đó là Xúc.
TÁC-Ý:
Móng khởi cái ý. Như khi muốn xem hoa, trước nhứt móng khởi cái ý; đó là “Tác-ý
Tâm-sở”. Rồi nó dẫn-dắt nhãn-thức xem hoa. Nếu không có tác-dụng của
Tâm-sở này, thì dù có gặp hoa cũng không thấy.
Người đời có khi đi ngang qua vườn đầy hoa, mà không thấy hoa. Như thế là
vì trong lúc đó, Tâm-sở tác-ý không có tương-ưng với nhãn-thức.
THỌ:
Lãnh thọ. Như khi thấy hoa, có sự cảm-thọ vui buồn v.v…
TƯỞNG:
Tưởng-tượng. Như sau khi thấy hoa, rồi tưởng-tượng hình-tướng của hoa đỏ hay
vàng, tốt hay xấu v.v…
TƯ:
Lo nghĩ, tạo-tác. Như nhơn thấy hoa, rồi lo nghĩ trồng hoa hay bẻ hoa v.v…
Lại nữa, “Thọ Tâm-sở” có
ba loại:
1.
Lạc-thọ.
Thọ vui. Khi gặp cảnh thuận, như được người khen-ngợi, thì cảm-thọ vui-mừng.
2.
Khổ-thọ.
Thọ khổ. Khi gặp cảnh nghịch, như bị người hủy-báng mạ-nhục, thì cảm-thọ buồn
khổ.
3.
Xả-thọ.
Thọ cảnh không vui buồn. Khi gặp cảnh bình-thường không thuận nghịch, như
trong lúc không được khen hay bị chê, thì cảm-thọ không vui buồn.
Tóm lại, thức thứ Tám này, tương-ưng với năm món Tâm-sở Biến-hành
và hành-tướng của nó rất là tế-nhị, không có hiện ra khổ và vui, nên chỉ tương-ưng
với xả-thọ.
NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN
Thị vô-phú vô-ký
Xúc đẳng diệc như thị.
DỊCH NGHĨA:
Tánh của thức này là vô-phú vô-ký, nên những Tâm-sở tương-ưng với nó, như Xúc, Tác-ý
v.v… cũng vô-phú vô-ký.
LƯỢC GIẢI
Tánh của các pháp, tóm lại có 3 loại: 1. Tánh thiện, 2. Tánh ác, 3. Tánh vô-ký
(không thiện không ác).
Tánh vô-ký, lại chia làm hai: 1. Vô-phú vô-ký, 2. Hữu-phú vô-ký. Thí như mặt
gương, không phải thiện ác; dụ cho “tánh vô-ký”. Khi bị bụi che lấy ánh-sáng;
dụ cho “tánh hữu-phú vô-ký”. Ðến lúc lau chùi sạch bụi; dụ cho “tánh vô-phú
vô-ký”.
Tóm lại, thức thứ Tám này không bị các phiền-não ngăn che, nên thuộc về tánh vô-phú
vô-ký. Và những Tâm-sở tương-ưng với thức này, như Xúc, Tác-ý v.v… cũng thuộc
về tánh vô-phú vô-ký.
NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN
Hằng chuyển như bộc lưu
DỊCH NGHĨA:
Hằng chuyển-biến như dòng nước chảy mạnh.
LƯỢC GIẢI
Ngoại-đạo chấp các pháp thường còn không mất, như thế gọi là chấp “thường”; hoặc
chấp chết rồi mất hẳn, như thế gọi là chấp “đoạn”.
Nhà Duy-thức nói: từ vô-thỉ đến nay, thức này hằng chuyển-biến luôn, mỗi niệm sanh-diệt
tương-tục không gián-đoạn. Cũng như nước thác, từ trên đồi cao đổ xuống, một
dãy trắng xoá; ở xa trông như tấm vải trắng. Vì nó hằng chảy luôn, nên chẳng
phải “đoạn-diệt”. Song nó liên-kết tiếp-tục nhiều giọt, biến chuyển sanh-diệt
luôn, nên không phải “thường nhứt”.
NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN
A-la-hán vị xả?
DỊCH NGHĨA:
Ðến vị A-la-hán mới xả bỏ thức này (tàng-thức).
LƯỢC GIẢI
Hỏi: Thức này, đã sanh
diệt tương-tục, là gốc của sanh-tử luân-hồi, vậy phải tu đến địa-vị nào mới xả bỏ
được nó?
Ðáp:
Người tu-hành đoạn hết phiền-não chướng, đến quả-vị A-la-hán, mới xả bỏ được thức
“A-lại-da”. Song chỉ xả bỏ cái “danh”, chớ không phải xả bỏ cái “thế” của
thức này.
Hỏi: Tại sao không xả
bỏ cái “thể” của thức này?
Ðáp:
Cái “thể” của thức này có hai phần: nhiễm và tịnh. Phần tịnh tức là “ Trí
“. Trong bài tụng nói “xả bỏ thức này”, tức là chuyển thức thành trí, chớ
không phải xả bỏ. Nếu xả bỏ cái “thể” của thức này, thì thành ra đoạn-diệt;
thuộc về ngoại đạo. Trong Ðạo Phật không có chủ-trương đoạn-diệt (mất hẳn).