BÀI THỨ BẢY
VII.- CHƯƠNG
OAI ĐỨC TỰ TẠI
1.- NGÀI OAI ĐỨC TỰ TẠI BỒ TÁT HỎI PHẬT
Khi ấy ngài Oai Đức Tự Tại Bồ tát ở trong
đại chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật ba vòng rồi chắp tay kính cẩn, đãnh
lễ dưới chân Phật và quỳ thẳng bạch rằng:
-
Bạch đức Đại bi Thế Tôn, xin ngài vì chúng con, phân biệt chỉ dạy “phương tiện để
nhập Viên Giác tánh”, khiến các vị Bồ tát nhờ nghe viên âm (1) của Phật mà giác
tâm được Quang minh, chẳng nhơn tu hành mà vẫn được lợi ích lớn.
-
Bạch đức Thế Tôn! Thí như cái thành lớn (Viên Giác) có bốn cửa (các phương tiện),
hành giả muốn vào cửa nào cũng được, đâu phải chỉ có một con đường.
-
Cũng thế, các vị Bồ tát tu hành, làm trang nghiêm cõi Phật và thành đạo Bồ đề, đâu
phải chỉ có một phương tiện. Cúi xin đức Thế Tôn vì chúng con chỉ dạy các
phương tiện tu hành và thứ lớp làm sao, để các vị Bồ tát trong pháp hội nầy và chúng
sanh đời sau cầu pháp Đại Thừa, đều được khai ngộ và mau vào biển Đại tịch diệt
(Viên Giác) của Như Lai.
Ngài Oai Đức Tự Tại Bồ Tát thưa
thỉnh vậy 3 lần, chắp tay kính cẩn, lễ Phật rồi trở lui.
LƯỢC GIẢI
Đại
ý đoạn nầy nói: Thành Viên Giác không hai, nhưng cửa phương tiện đi vào rất nhiều.
Xin Phật vì các vị Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau tu Đại thừa, chỉ dạy các
phương tiện và thứ lớp tu hành như thế nào, để hành giả mau được vào thành Viên
Giác.
Kinh
Lăng Nghiêm nói: “Quy nguyên tánh vô nhị, phương tiện hữu đa môn”. (Trở về
tánh “Bản nguyên” thì không hai, nhưng phương tiện đi vào lại có nhiều cửa.
(1)
Viên âm (là tiếng tròn): Tiếng nói của Phật đầy đủ ý nghĩa, tùy theo
trình độ của người cao thấp đều được hiểu ngộ.
2.- PHẬT KHEN NGÀI OAI ĐỨC TỰ TẠI BỒ
TÁT
Khi đó đức Thế Tôn khen ngài Oai Đức Tự
Tại Bồ Tát và dạy rằng:
-
Nầy Thiện nam, quý lắm! Ông vì các vị Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau,
thưa hỏi Như Lai về các phương diện tu hành. Ông nên chăm chú nghe, ta sẽ
vì các ông mà chỉ dạy.
Khi đó ngài Oai Đức Tự Tại Bồ Tát cùng
với đại chúng đồng yên lặng, chăm chú và hoan hỷ nghe lời Phật chỉ giáo.
3.- PHẬT DẠY: CẢNH “VIÊN GIÁC” KHÔNG
HAI, NHƯNG PHƯƠNG TIỆN VÀO CÓ NHIỀU ĐƯỜNG
-
Nầy Thiện nam ! Tánh Viên Giác nhiệm mầu vô thượng nầy, nó trùm khắp cả 10
phương và sanh ra chư Phật cùng tất cả các pháp. Bởi tất cả chúng sanh cùng
với chư Phật đồng một bản thể bình đẳng không khác, nên người tu hành khi đã trở
về tánh Viên Giác, thì thật ra không có hai nơi; song những phương tiện để nhập
Viên Giác lại có vô lượng.
-
Vì trình độ của chúng sanh không đồng, nên các phương tiện trở về tánh Viên Giác
có sai khác, nhưng không ngoài ba phương tiện sau nầy.
LƯỢC GIẢI
Đại ý đoạn nầy nói: Viên Giác không hai,
song phương tiện tu hành để nhập Viên Giác thì có nhiều pháp. Nhưng không
ngoài ba pháp môn là: Chỉ, Quán, và Chỉ Quán song tu ở sau đây.
4.- TU PHÁP “XA MA THA” (TỨC LÀ TU CHỈ
HOẶC GỌI TU ĐỊNH)
-
Nầy Thiện nam! Nếu các Bồ tát ngộ được Viên Giác thanh tịnh rồi thì y theo
tâm Viên Giác thanh tịnh nầy mà giữ cái hạnh yên lặng và lóng các vọng niệm.
Khi các giác quan vọng thức phiền động đã lặng rồi, thì trí huệ thanh tịnh phát
sanh. Lúc bấy giờ cái thân hư vọng sanh diệt như khách và nhiễm ô như bụi
nầy, từ đây diệt hết. Khi đó trong nội tâm của hành giả lại sanh ra vắng lặng
và nhẹ nhàng thư thới (tịch mịch khinh an) nên chư Phật ở trong 10 phương thế giới
đều hiện ra trong tâm của hành giả, rất rõ ràng như bóng hiện trong gương.
-
Phương tiện tu hành như thế gọi là “Xa ma tha.”
LƯỢC GIẢI
Đại
ý đoạn nầy Phật nói: Bồ tát khi ngộ được tánh Viên Giác thanh tịnh rồi thì dùng
tâm thanh tịnh nầy để lóng các phiền não vọng thức. Khi các cặn cáu phiền
não đã lóng đứng rồi, thì trí huệ thanh tịnh phát sanh. Lúc bấy giờ hành giả
quan sát lại thân tâm hư vọng như khách, huyễn hóa lăng xăng như bụi đều diệt hết
(ngã, pháp không còn).
Bởi
các vọng hoặc nhiễm ô đã diệt hết, tâm được thanh tịnh nên 10 phương chư Phật hiện
ra trong tâm của hành giả. Cũng như ly nước được lóng trong, thì các bóng
ngoài hiện vào. Kinh nói: “Chúng sanh tâm nhược tịnh, Bồ đề ảnh hiện trung”
(Nếu tâm chúng sanh được thanh tịnh, thì bóng Bồ đề tự hiện vào).
Lưu ý: Trong kinh nầy nói “Chỉ, quán”, không đồng lối. “Chỉ, quán” của
tiểu thừa, vì lối “Chỉ, quán” của Tiểu thừa là phải dùng phương tiện bên ngoài để
tu. Còn lối “Chỉ, quán” của Đại thừa là xứng theo bản thể của chơn tâm mà
“Chỉ” và “Quán” nên có phần cao siêu hơn.
5.- TU PHÁP “TAM MA BÁT ĐỀ” (TỨC LÀ TU
QUÁN, HOẶC GỌI TU HUỆ)
-
Nầy Thiện nam! Nếu các Bồ tát ngộ được Viên Giác thanh tịnh rồi, thì y theo
tâm Viên Giác thanh tịnh mà quán sát tâm tánh, thân căn và trần cảnh nầy đều là
vật huyễn hóa. Lúc bấy giờ Bồ tát khởi ra cái trị như huyễn để trừ các pháp
như huyễn; làm các hạnh như huyễn để hóa độ chúng sanh như huyễn. Bởi Bồ tát
tu pháp quán như huyễn nầy, nên Đại bi tâm thương xót cứu khổ tất cả chúng sanh
mà vẫn nhẹ nhàng thư thới (Đại bi khinh an) không tham trước luyến ái nơi chúng
sanh.
-
Tất cả Bồ tát, đều y theo pháp quán như huyễn nầy mà tu hành, lần lần tăng tiến.
Ban đầu quán cảnh là huyễn, nhưng người quán chưa phải huyễn; sau người quán cũng
là huyễn và cuối cùng hoàn toàn xa lìa các tướng huyễn (lúc bấy giờ cái phi huyễn
hiện ra). Thế là Bồ tát đã hoàn thành được pháp quán mầu nhiệm nầy.
Bồ tát lần lượt tiến tu cũng như đất làm cho mầm mộng lần hồi được sanh trưởng.
-
Phương tiện tu như thế gọi là “Tam ma bát đề”.
LƯỢC GIẢI
Đại
ý đoạn nầy Phật dạy: Khi Bồ tát ngộ được Viên Giác nầy mà quán các pháp, nào căn,
trần và thức đều là huyễn hóa. Lúc bấy giờ Bồ tát khởi cái trí như huyễn để
diệt các vô minh phiền não như huyễn, tu các hạnh như huyễn để hóa độ chúng sanh
như huyễn. Đến khi các huyễn cảnh đã không, huyễn trí cũng hết, nào tâm, cảnh,
năng, sở đều tiêu, hoàn toàn xa lìa các huyễn tướng rồi thì tánh Viên Giác phi huyễn
hiện ra. Như tiếng ồn của học trò hết, tiếng gõ bảng của thầy giáo thôi, lúc
bấy giờ cảnh yên tịnh hiện ra.
Thí
như người ngủ, chiêm bao thấy giặc bao vây, đem binh dẹp trừ v.v… Khi giặc
chiêm bao tan (cảnh huyễn hết) binh lính hết (người quán huyễn không) và tâm chiêm
bao cũng không còn (huyễn trí hết) thì tâm giác ngộ tự nhiên hiện vậy (Viên Giác
hiện).
Bồ
tát y theo tánh Viên Giác tu pháp như huyễn nầy, từ chỗ cạn đến chỗ sâu, ly được
phần huyễn tức là chứng được một phần giác. Cũng như cái mầm chồi, y nơi đất
mà lần hồi nảy nở.
Kinh nầy Phật dạy tu pháp như huyễn, giống
như kinh Kim Cang Phật dạy:
Nhứt thế hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộc diệc như điển
Ưng tác như thị quán.
Nghĩa là:
Nếu quán như thế nầy:
Cái gì có làm ra
Đến như mộng huyễn, bọt
Như bóng, sương và chớp.
Lưu ý: Nhờ pháp “Chỉ” mới dừng đứng các vọng niệm đương khởi và sẽ khỏi bên
trong. Khi vọng niệm không còn khởi thì “chơn tánh” tự hiện bày.
Nhờ
pháp “Quán” mới rõ các cảnh hiện tiền như huyễn, để đối trị tâm tham luyến thân
và cảnh, và xa lìa ngã chấp và pháp chấp. Khi ngã pháp hết thì Viên Giác hiện
ra.
(1) Bồ tát phát tâm Đại bi: Bồ tát nhận thấy tất cả chúng sanh cùng với
mình đồng một bản thể chơn như bình đẳng không hai không khác. Vì thế mà Bồ tát
phát tâm thương xót tất cả chúng sanh, nên gọi là “Đại bi tâm”.
Bồ
tát rộng độ chúng sanh, mà không thấy (chấp) có mình năng độ và người được độ.
Bởi không chấp tướng “ngã, nhơn” như thế, nên Bồ tát không biết bao nhiêu việc lành,
độ vô số chúng sanh mà tâm vẫn nhẹ nhàng thư thái (khinh an).
6.- TU PHÁP “THIỀN NA” (TỨC LÀ CHỈ, QUÁN
ĐỒNG THỜI TU, HAY GỌI LÀ ĐỊNH HUỆ SONG TU)
-
Nầy Thiện nam! Nếu các vị Bồ tát ngộ được Viên Giác thanh tịnh tâm rồi, thì
y nơi tâm Viên Giác nầy mà tu: Không chấp thủ pháp “quán như huyễn”, và pháp “chỉ
tịch tịnh”. Bồ tát rõ biết thân tâm nầy đều là vật ngăn ngại, còn tánh Viên
Giác (vô tri giác minh) thì không bị các vật làm chướng ngại, lại còn siêu vượt
ra ngoài những cảnh chướng ngại (sanh tử) và không chướng ngại (Niết bàn); nó vẫn
thọ dụng thế giới và thân tâm ở trong cõi trần nầy, mà không bị cảnh trần ràng buộc,
mặc dù phiền não hay Niết bàn cũng không làm lưu ngại nó được. Thí như tiếng
“boong” của chuông, tu ở nơi chuông mà vẫn thót ra ngoài chuông.
-
Bồ tát lúc bấy giờ ở nơi nội tâm được vắng lặng. Rất nhẹ nhàng thư thái, nào
ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng, bốn tướng đều chẳng còn và tùy thuận cảnh giới
Viên Giác tịch tịnh mầu nhiệm.
-
Bồ tát tu pháp phương tiện nầy gọi là tu “Thiền na”.
LƯỢC GIẢI
Thiền
na Tàu dịch là “Tĩnh lự”. Chữ “Tĩnh” tức là “Chỉ” (Định). Chữ “Lự” tức
là “Quán” (Huệ).
Pháp
“Xa ma tha” thì tu về “Chỉ” là định.
Pháp
“Tam ma bát đề” tu về “Quán” là Huệ.
Pháp
“Thiền na” nầy thì Chỉ và Quán đều tu, khiến cho Định và Huệ được quân bình.
Đại
ý đoạn nầy nói: Bồ tát khi ngộ được tâm Viên Giác thanh tịnh rồi, y theo tâm nầy
mà tu, không dùng pháp “Chỉ” và “Quán”. Bồ tát rõ biết thân tâm nầy đều là
vật chướng ngại, mà tánh Viên Giác không chướng ngại. Mặc dù thọ dụng thân nầy,
tâm nầy và thế giới trần cảnh nầy, mà tánh Viên Giác vẫn hoàn toàn siêu vượt ra
ngoài các cảnh chướng ngại và không chướng ngại, cho đến phiền não hay Niết bàn
cũng không lưu ngại nó được. Cũng như tiếng “boong” của chuông, vượt ra ngoài
chuông.
Khi
đó Bồ tát diệt hết bốn tướng (ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng), nhập vào cảnh giới
Viên Giác. Bồ tát tu phương tiện nầy gọi là tu “Thiền Na”.
7.- TU PHÁP PHƯƠNG TIỆN NẦY LỢI ÍCH RẤT
LỚN
-
Nầy Thiện nam! Ba pháp môn nầy, đều là phương tiện để nhập Viên Giác tánh.
Mười phương các đức Phật đều nhơn phương tiện nầy mà được thành Phật. Mười
phương các vị Bồ tát, tu các phương tiện hoặc đồng hay khác, nhưng cũng đều y ba
pháp môn nầy mà được chứng ngộ hay thành Viên Giác.
-
Nầy Thiện nam! Giả sử có người tu theo đạo Phật, hóa độ được muôn ức vị A la hán
và Bích Chi Phật, nhưng lợi ích không bằng có người chỉ trong giây phút tùy thuận
và tu tập pháp môn Viên Giác vô ngại nầy.
LƯỢC GIẢI
Ba
pháp môn “chỉ, quán, và chỉ quán song tu” nầy là cái phưong tiện để nhập Viên Giác
tánh. Tất cả chư Phật và Bồ tát cũng đều y theo ba pháp môn nầy mà được thành
đạo chứng quả.
Những
người giáo hóa ngàn muôn ức Thinh Văn và Duyên Giác tuy nhiều nhưng thuộc về Tiểu
thừa quả, nên sự lợi ích không bằng người trong giây phút, tùy thuận tánh Viên Giác.
Vì tùy thuận tánh Viên Giác tức là vào cảnh giới Phật, nên lợi ích lớn hơn.
8.- PHẬT NÓI BÀI KỆ TÓM LẠI NGHĨA TRÊN
Khi đó đức Thế Tôn muốn tóm lại các nghĩa
trên nên nói bài kệ rằng:
Oai Đức! Ông nên biết:
Viên Giác tánh không hai,
Phương tiện tu có nhiều.
Như Lai tóm chỉ bày,
Không ngoài ba pháp môn:
Tu pháp “Chỉ” vắng lặng,
Như bóng chiếu trong gương.
Tu pháp “Quán” như huyễn,
Như mộng (mầm, chồi) lần lần lớn.
Chỉ, Quán đồng thời tu
Như tiếng boong của chuông
Ba pháp môn mầu nhiệm,
Đều tùy thuận Viên Giác.
Mười phương các đức Phật,
Và các đại Bồ tát
Nhơn đây được thành đạo.
Ba pháp, chúng hoàn toàn,
Là rốt ráo Niết bàn.
LƯỢC GIẢI
Đại
ý bài kệ nầy Phật nói: Tánh Viên Giác không hai, nhưng các phương tiện tu hành có
vô số. Song không ngoài ba pháp môn là: Chỉ, Quán, và Chỉ Quán song tu.
Các đức Phật và các vị Bồ tát cũng đều y ba pháp nầy mà được thành đạo. Chứng
3 pháp nầy được hoàn toàn thì rốt ráo quả Niết bàn.
Ba
pháp môn nầy cũng đều gọi là ba pháp “Chỉ” hay ba pháp “Quán”.
1. Xa ma
tha là “thể chơn chỉ”, tức là: "không quán” y theo chơn đế mà tu.
2. Tam ma
bát đề là “phương tiện tùy duyên chỉ”, tức là “giả quán” y theo tục đế mà tu.
3. Thiền
na là “nhị biên phân biệt chỉ”, tức là “trung quán” y theo trung đế mà tu.
Nếu
phân tách mà nói thì ba pháp Chỉ gọi là “Xa ma tha”, còn ba pháp Quán gọi là “Tam
ma bát đề”, Chỉ và Quán không hai gọi là “Thiền Na”.