KINH
ĐẠI BÁT NHÃ TOÁT YẾU
Ngài Tam tạng Pháp sư CƯU MA LA THẬP, dịch chữ Phạn ra chữ hán
Sa môn THÍCH THIỆN HOA dịch lại chữ Việt và lược giải
NGUYÊN
VĂN
(bản dịch thứ nhất)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau
khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát
Nhã) nên không còn các khổ.
Ngài gọi ông Xá Lợi Tử dạy
rằng: "Này Xá Lợi Tử ! Năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) chẳng khác với
"không" chẳng khác với năm uẩn; năm uẩn tức là "không", "không"
tức là năm uẩn.
Này Xá Lợi Tử ! "Tướng
không" (Bát Nhã) của các pháp đây, nó không sanh không diệt, không nhơ không
sạch, không thêm không bớt.
Bởi thế nên, trong "Tướng
không" (Bát Nhã) này, không có năm uẩn là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không
có Sáu căn là: nhãn ,nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; không có Sáu trần là: sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp; không có Sáu thức là: nhãn thức, nhĩ thức, tũ thức, thiệt
thức, thân thức và ý thức;
Không có mười hai nhơn duyên;
nghĩa là không có "vô minh" và cũng không có "hết vô minh";
cho đến không có "Lão tử" và cũng không có "hết Lão tử";
Không có Tứ đế là: khổ, tập,
diệt, đạo; cũng không có "trí" tu chứng và đạo quả để chứng (dắc). Tóm
lại, không có "đặng" cái gì cả.
Các vị Bồ Tát nhờ y theo Trí
huệ Bát Nhã (Tướng không) mà xa lìa được cá mộng tưởng điên đảo, nên tâm không còn
ngăn ngại, lo sợ và chứng được rốt ráo Niết bàn.
Các đức Phật quá khứ, hiện
tại và vị lai cũng đều y theo Trí huệ Bát Nhã (Tướng không) mà đặng đạo Vô thượng
Bồ Đề.
Vì Trí huệ Bát Nhã (Tướng
không) có khả năng diệt trừ hết các khổ, chắc chắn như vậy, không hư dối, nên gọi
là thần chú Bát Nhã Ba La Mật; cũng gị là "chú Đại thần, chú Đại minh, chú
Vô thượng và chú Vô đẳng đẳng".
Ngài Quán tự tại Bồ Tát liền
nói Thần chú Bát Nhã: "Yết đế yết đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ Đề
tát bà ha".
***
BÁT NHÃ TÂM KINH
Ngài Tam tạng Pháp sư CƯU MA LA THẬP, dịch chữ Phạn ra chữ hán
Sa môn THÍCH THIỆN HOA dịch lại chữ Việt và lược giải
NGUYÊN VĂN
(bản dịch thứ hai)
KINH ĐẠI
BÁT NHÃ TOÁT YẾU
Sau khi đi sâu vào Trí huệ
Bát Nhã rồi, Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thấy các pháp đều là Bát Nhã (không), nên không
còn các khổ.
Ngài gọi ông Xá Lợi Tử dạy
rằng: "này Xá Lợi Tử ! các pháp chẳng khác với Bát Nhã (không), Bát Nhã chẳng
khác với các Pháp; các Pháp tức là Bát Nhã (không), Bát Nhã tức là các Pháp.
Này Xá Lợi Tử ! Bát Nhã (tướng
không) là tánh của các Pháp. Nó không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không
thêm không bớt.
Bởi thế nên trong Bát Nhã
(không), không có các Pháp thế gian như: Năm uẩn (sác, thọ, tưởng, hành, thức),
sáu căn (nhãn,nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý), sáu trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp),
sáu thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thứ và ý thức).
Và trong Bát Nhã, cũng không
có các Pháp xuất thế gian như: Tứ đế (khổ, tập, diệt, đạo), Mười hai nhơn duyên
(không có vô minh và vô minh tận; không có Lão tử và Lão tử tận), không có "trí"
tu chứng và đạo quả để chứng (dắc). Tóm lại, trong Bát Nhã không có cái gì cả.
Các vị Bồ Tát nhờ y theo Trí
huệ Bát Nhã (không) mà xa lìa được các mộng tưởng điên đảo, nên tâm không còn ngăn
ngại, lo sợ và chứng được đạo quả Niết bàn.
Các đức Phật quá khứ, hiện
tại và vị lai, cũng đều y theo Trí huệ Bát Nhã (không) mà đặng đạo vô thượng Bồ
Đề.
Vì Trí huệ Bát Nhã có khả
năng diệt trừ hết các khổ, chắc chắn như vậy không hư dối, nên cũng gọi là Thần
chú Bát Nhã, cũng gọi là chú Đại thần, chú Đại minh, chú Vô thượng và chú Vô đẳng
đẳng".
Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, liền
nói thần chú Bát Nhã:
"Yết đế yết đế, Ba la
yết đế, Ba La Tăng Yết đế, Bồ Đề tát bà ha".