BÀI THỨ
TÁM
PHẦN CHÁNH TÔN (tiếp theo)
48. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP “BỒ-TÁT CÓ ÐỘ SANH”
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Nếu Bồ-Tát còn chấp mình hóa độ vô số chúng-sanh thì không phải
là Bồ-tát. Tại sao vậy? Vì thật ra không có một pháp gì gọi là Bồ-tát.
Bởi thế nên Phật nói: “Tất cả các pháp không ngã, không nhơn, không chúng-sanh
và không thọ-giả”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật dùng trí-huệ Bát-Nhã phá trừ cái chấp “thật có Bồ-tát, thật có độ
sanh” và Phật dạy “các pháp đều giả, không có bốn tướng”.
Ðúng theo tinh-thần kinh Bát-Nhã, thì pháp nào hay việc làm nào của Bồ-tát, hợp
với tánh Bát-Nhã chơn-không, thì pháp đó hay việc làm đó mới là thật.
Nếu Bồ-tát còn chấp có mình độ sanh tức là Bồ-tát còn nhơn (người được độ), ngã
(mình độ) v.v… thì không hợp với tinh-thần Bát-Nhã, nên không phải là Bồ-tát.
Ðây là lần thứ hai (lần thứ nhứt ở đoạn 3) Phật phá cái chấp “Bồ-tát có độ sanh”.
Vì Bồ-tát hợp với tánh Bát-Nhã chơn không, nên Phật dạy: “không có một pháp gì gọi
là Bồ-tát”. Cũng vì các pháp hợp với tánh Bát-Nhã chơn-không, nên Phật dạy:
“Tất cả các pháp đều không ngã, không nhơn, không chúng-sanh và không thọ-giả”.
49. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP “BỒ-TÁT CÓ LÀM TRANG-NGHIÊM CÕI PHẬT”
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Nếu Bồ-tát chấp rằng: “Ta làm trang-nghiêm cõi Phật”, thì
không phải là Bồ-tát. Tại sao vậy? Như-Lai nói: “Bồ-tát làm trang-nghiêm
cõi Phật, mà không chấp mình có làm trang-nghiêm cõi Phật, mới thật là trang-nghiêm
cõi Phật”.
-
Tóm lại, nếu Bồ-tát không còn chấp ngã, chấp pháp, Như-Lai mới gọi là “thật Bồ-tát”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật dạy: Bồ-tát không còn chấp ngã, chấp pháp, phải hợp với tánh
Bát-Nhã chơn-không, mới phải thật là Bồ-tát và mới phải là trang-nghiêm cõi Phật.
Ðây là lần thứ hai (lần thứ nhứt), xem đoạn 16) Phật phá cái chấp “Bồ-tát có trang-nghiêm
cõi Phật”.
Bồ-tát làm trang-nghiêm cõi Phật, mà không chấp mình có làm trang-nghiêm, như thế
mới thật là trang-nghiêm cõi Phật. Trái lại, nếu Bồ-tát chấp mình có làm trang-nghiêm
cõi Phật, tức là Bồ-tát còn chấp ngã (ta làm), chấp pháp (cõi Phật), không hợp với
tinh-thần Bát-Nhã, thì không phải là trang-nghiêm và cũng không phải là Bồ-tát.
Tóm lại, Phật dạy: Nếu Bồ-tát nhập vào Bát-Nhã chơn-không, không còn các vọng
chấp ngã, pháp, thì Như-Lai mới gọi là thật “Bồ-tát”.
Ngài Xuyên Thiền-sư làm bài tụng tóm tắt lại ý nghĩa trên, như sau:
Nguyên văn (dịch âm):
Tá bà sam tử bái bà môn
Lễ số châu truyền dĩ thập phần
Trúc ảnh tảo dai, trần bất động
Nguyệt luân xuyên hải thủy vô ngần.
Dịch nghĩa:
Mượn áo tràng bà để lạy bà
Lễ rồi, áo trả lại cho bà
Bóng trúc quét sân, trần chẳng động
Vừng trăng xuyên biển, nước không xao.
ÐẠI Ý BÀI TỤNG
Bài kệ này nói về lý “vô trụ vô tướng” của kinh Bát-Nhã, Bồ-tát làm trang-nghiêm
cõi Phật; cũng như người mượn áo tràng của bà để lạy bà. Nhưng Bồ-tát không
chấp có trang-nghiêm cõi Phật; như người lạy rồi trả áo, không còn giữ lại vết tích
gì cả.
Bồ-tát độ sanh hay làm các Phật sự mà không thấy có mình độ và chúng-sanh được độ
v.v… cũng như bóng trúc quét bụi, tia sáng của vừng trăng xuyên biển, mà không thấy
mình quét và xuyên; bụi trần không động mà nước cũng không dợn.
50. PHẬT CÓ ÐỦ NĂM LOẠI CON MẮT
Phật hỏi:
-
Tu-Bồ-Ðề! Như-Lai có Nhục nhãn không?
Tu-Bồ-Ðề thưa:
-
Bạch Thế-Tôn! Như-Lai có Nhục nhãn.
-
Tu-Bồ-Ðề! Như-Lai có Thiên nhãn không?
-
Bạch Thế-Tôn! Như-Lai có Thiên nhãn.
-
Tu-Bồ-Ðề! Như-Lai có Huệ nhãn không?
-
Bạch Thế-Tôn! Như-Lai có Huệ nhãn.
-
Tu-Bồ-Ðề! Như-Lai có Pháp nhãn không?
-
Bạch Thế-Tôn! Như-Lai có Pháp nhãn.
-
Tu-Bồ-Ðề! Như-Lai có Phật nhãn không?
-
Bạch Thế-Tôn! Như-Lai có Phật nhãn.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này phá cái chấp “Phật và Bồ-tát không thấy chi hết”.
Mục-đích của kinh Bát-Nhã là phải phá hết các vọng chấp, thì chơn-tâm hay Phật ánh
(Bát-Nhã) mới hiện. Bởi thế nên, chấp “có” đã bị bác, mà chấp “không” cũng
bị bác.
Từ trước đến nay, Phật đã nhiều lần phá về chấp có. Như nói: “Bồ-tát
phải không thấy có mình độ sanh, không thấy có chúng-sanh được độ. Bồ-tát
không thấy mình làm trang-nghiêm và không thấy cõi Phật được trang-nghiêm v.v…”
Sợ người chấp: “… như thế thì chư Phật và Bồ-tát không thấy chi hết”, nên đến đoạn
này, Phật mới hỏi ông Tu-Bồ-Ðề: “Như-Lai có năm món nhãn không?” Ông Tu-Bồ-Ðề
thưa: “Như-Lai có đủ năm món nhãn”; nghĩa là có đủ năm loại con mắt, nên Như-Lai
thấy tất cả.
GIẢI DANH TỪ
1. Nhục nhãn
Con mắt thịt
của phàm-phu, chỉ thấy trong phạm-vi nhỏ hẹp; nếu bị vật gì che ngăn thì không thấy.
2. Thiên nhãn
Con mắt của
chư Thiên, do tu thiền-định hoặc sanh lên các cõi trời, mới được con mắt này.
Thiên nhàn thấy được xa và thấu suốt tất cả, không bị vật gì làm chướng ngại.
3. Huệ nhãn
Con mắt trí-huệ.
Huệ nhãn chỉ thấy “ngã không”; nghĩa là chúng-sanh không thật, chỉ do ngũ uẩn và
tứ đại hòa-hợp. Hàng Thinh-văn và Duyên-giác mới có Huệ nhãn.
4. Pháp nhãn
Con mắt thấy
suốt tất cả các pháp. Bồ-tát đặng pháp nhãn, thấy “ngã pháp”, đều không; nghĩa
là Bồ-tát không những rõ thấu ngã, nhơn, chúng-sanh, thọ-giả đều không, mà cũng
rõ thấu tất cả các pháp đều không thật, chỉ do các duyên hòa hợp sanh.
5. Phật nhãn
Con mắt Phật.
Phật thấy biết tất cả các pháp trong thế-gian và xuất thế-gian. Phật thấy
hoàn-toàn viên-mãn, dù hằng-sa thế-giới, vô lượng chúng-sanh, Phật cũng đều thấy
và biết tất cả.
Tóm lại, Phật có đủ 5 con mắt; Bồ-tát có 4 con mắt, Nhị-Thừa còn 3, phàm-phu chỉ
một, chư Thiên có một hoặc hai.
Cổ-nhơn làm bài tụng nói về ngũ uẩn như sau:
Dịch âm (nguyên văn):
Thiên nhãn thông phi ngại
Nhục nhãn ngại phi thông
Pháp nhãn duy quán tục
Huệ nhãn liễu tri thông
Phật nhãn như thiên nhựt
Chiếu dị thể hoàn đồng.
Dịch nghĩa:
Mắt Trời thấy thông suốt
Mắt Thịt thấy có ngại
Mắt Pháp thấy pháp không
Mắt Huệ thấy ngã không
Mắt Phật thấy tất cả
Muôn pháp đồng nhứt thể.
51. PHẬT THẤY BIẾT HẾT CÁC TÂM NIỆM CỦA CHÚNG-SANH TRONG HẰNG
SA THẾ-GIỚI
Phật hỏi:
-
Tu-Bồ-Ðề! Cát ở trong sông Hằng, Như-Lai có gọi là cát không?
Tu-Bồ-Ðề thưa:
-
Bạch Thế-Tôn! Như-Lai cũng gọi là cát.
Phật hỏi:
-
Như một sông Hằng có vô số cát, rồi lấy mỗi một hột cát, để thí dụ một sông Hằng,
thì có vô số sông Hằng. Trong vô số sông Hằng, mỗi một sông Hằng lại có vô
số cát nữa, rồi đem vô số hạt cát trong vô số sông Hằng đó; lại thí nữa, mỗi một
hạt cát là một thế-giới của Phật (Ðại thế-giới). Như thế, thế-giới của Phật
có nhiều không?
Tu-Bồ-Ðề thưa:
-
Bạch Thế-Tôn! Nhiều lắm.
Phật dạy tiếp:
-
Tu-Bồ-Ðề! Tất cả chúng-sanh ở trong vô số thế-giới như vậy, có bao nhiêu tâm
niệm, Như-Lai đều thấy biết tất cả.
Phật dạy tiếp:
-
Tu-Bồ-Ðề! Như-Lai nói tâm, không phải thật có tâm, chỉ giả gọi là “tâm”.
Tại sao vậy? - Vì tâm quá-khứ tìm không được, tâm hiện-tại tìm không
được, tâm vị-lai cũng tìm không được.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này tiếp tục với đoạn trên (50), Như-Lai có 5 con mắt, nên Như-Lai thấy biết
vô cùng thế-giới và vô tận chúng-sanh.
Trong vô số thế-giới, mỗi thế-giới có vô số chúng-sanh, mỗi chúng-sanh có bao nhiêu
tâm niệm, Như-Lai đều thấy biết tất cả.
Vừa nói đến “tâm”, sợ chúng-sanh vọng chấp “có tâm” mà không nhập được Kim-Cang
Bát-Nhã, nên Phật liền phá: “Như-Lai nói “tâm” không phải thât có tâm, chỉ giả gọi
là “tâm”.
Phật gỉải-thích thêm: Vì tâm quá-khứ đã diệt, tâm vị-lai chưa đến, tâm hiện-tại
không dừng trụ, nên trong ba thời tìm tâm đều không thể được.
Thuở xưa, Ngài Huệ-Khả (Nhị-Tổ) đến cầu Tổ Ðạt-Ma (Sơ Tổ) về pháp an-tâm (xem “Bản-đồ
tu Phật” tập 4).
Tổ Ðạt-Ma hỏi: “Ông đến đây để làm gì?”
Ngài Huệ-Kh ả thưa: “Bạch Tổ-sư! Con đến đây để cầu Pháp an-tâm”.
Tổ Ðạt-Ma hỏi: “Quá-khứ tâm bất khả đắc, hiện-tại tâm bất khả đắc, vị-lai
tâm bất khả đắc, vậy ông muốn an cái tâm nào?”
Ngài Huệ-Kh ả thưa: “Trong ba thời (quá-khứ, hiện-tại và vị-lai) con tìm tâm
đều không thể được”.
Tổ Ðạt-Ma dạy: “Ta đã an-tâm cho ông rồi”. Ngài Huệ-Kh ả liền tỏ ngộ.
Ngài Xuyên Thiền-sư có làm bài kệ nói về ba tâm:
Nguyên văn (dịch âm):
Tâm tế cầu tâm, tâm bất kiến
Lưỡng nhãn y nhiên đối lưỡng nhãn
Bất tu di kiếm khắc chu tầm
Tuyết nguyệt phong hoa thường kiến diện.
Dịch nghĩa:
Hai mắt trơ trơ chỉ ngó chăm
Tìm mãi ba đời chẳng thấy tâm
Tuyết nguyệt phong ba thường đối diện
Kiếm rơi hà-tất khắc ghe tâm.
LƯỢC GIẢI VÀ ÐẠI Ý
Thuở xưa, có người đi thuyền làm rơi cây kiếm dưới sông. Người ấy liền lấy
dao khắc be thuyền, để chờ thuyền đậu nghỉ sẽ tìm. Ðến khi thuyền đâu, người
ấy xuống sông mò hoài không được kiếm. Anh thắc mắc: “Cây kiếm mới rớt, tôi
khắc thuyền làm dấu ngay chỗ nầy, sao tìm hoài không được”.
Người trí thấy vậy bảo: “Anh dại quá! Kiếm rớt hồi nãy, thì anh phải
tìm ngay hồi nãy và tại chỗ đó; chớ đợi đến bây giờ, đã khác chỗ rồi, thì làm sao
tìm được”.
Cũng thế, người tu-hành phải trực ngộ bản tâm của mình. Nếu còn móng tâm để
tìm tâm ở đâu đâu, thì không bao giờ tìm được; vì tâm quá-khứ đã diệt, tâm hiện-tại
không dừng, tâm vị-lai chưa đến.
Tóm lại, đại ý bài tụng:
Những cảnh vật thiên-nhiên, như tuyết trong, trăng sáng, gió mát, hoa tươi ở trước
mắt, đều biểu lộ bản-thể chơn-tâm thường trú. Hành-giả phải tức nơi muôn vật
đó mà trực-ngộ bản tâm thanh-tịnh của mình, cần gì phải tìm đâu xa. Nếu hành-giả
không trực-ngộ, mà cứ lo tìm tâm quá-khứ, hiện-tại và vị-lai, thi cũng như người
khắc dấu thuyền để mò kiếm, không bao giờ mò được.
52. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP “PHƯỚC ÐỨC NHIỀU”
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Nếu có người dùng 7 món báu, đựng đầy trong một đại thế-giới (một
nghin triệu thế-giới nhỏ) đem bố-thí, người này được phước nhiều không?
Tu-Bồ-Ðề thưa:
-
Bạch Thế-Tôn! Nhiều lắm.
Phật dạy:
-
Nếu chấp phước-đức này thật có, thì Như-Lai nói phước-đức này không nhiều.
Không chấp phước-đức nhiều, Như-Lai mới nói là “đặng nhiều phước-đức”.
LƯỢC GIẢI
Nếu đem tâm chấp tướng mà làm việc phước-đức, thì phước-đức ấy thành hữu-vi hữu-lậu;
dầu có nhiều bao nhiêu cũng có ngày cùng tận. Trái lại, nếu đem tâm vô tướng
(không cầu danh, cầu lợi, không chấp nhơn, chấp ngã v.v…) mà làm việc phước-đức,
thì phước-đức này thuộc về vô-lậu thanh-tịnh, hợp với tánh Bát-Nhã chơn-không (chơn-tâm)
dù làm ít, nhưng phước-đức vô cùng tận.
Thuở xưa, Tổ Ðạt-Ma đến Trung-hoa truyền đạo. Vua Lương-Võ-Ðế đem việc bố-thí
làm phước, đúc chuông, tạo tượng và lập 72 cảnh chùa v.v… để hỏi Tổ Ðạt-Ma.
Trong câu hỏi có tánh cách khoe-khoang chấp tướng.
Vua hỏi: “Trẫm lập 72 cảnh chùa, đúc chuông, tạo tượng, tu kiều, bồi lộ v.v…
phước-đức có nhiều không?”
Trả lời đúng theo tinh-thần “vô-trụ, vô tướng” của kinh Bát-Nhã, Tổ Ðạt-Ma nói:
“Không có phước-đức”. Vua Lương-Võ-Ðế, vì trình-độ quá kém, không hiểu được
lời của Tổ dạy, nên nghi rằng không phải Tổ, lại đem dân thuốc độc cho Tổ Ðạt-Ma
uống …. (xem quyển “Tổ Ðạt-Ma”, do Hương-Ðạo xuất bản).
Ngài Xuyên Thiền-sư tả về cảnh: “Khi các mây vô-minh vọng chấp hết, thì mặt
trăng trí-huệ Bát-Nhã hiện ra”, bằng hai câu sau:
Nguyên văn (dịch âm):
Vô hạn dã vân phong quyển tận
Nhứt luân cô nguyệt chiếu thiên tâm.
Dịch nghĩa:
Gió cuốn mây đen về biển cả
Một vừng trăng sáng giữa trời không.
53. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP “THẤY SẮC THÂN VÀ TƯỚNG TỐT CỦA PHẬT LÀ
THẤY PHẬT”
Phật hỏi:
-
Tu-Bồ-Ðề! Ông có thể cho thấy sắc thân của ta đây là thấy được Phật không?
Tu-Bồ-Ðề thưa:
-
Bạch Thế-Tôn! Không thể cho thấy sắc thân của Phật là thấy được Phật.
Tại sao vậy? Vì Như-Lai nói sắc thân, không phải thật sắc thân, chỉ giả gọi
là sắc thân.
Phật hỏi tiếp:
-
Tu-Bồ-Ðề! Ông có thể cho thấy các tướng tốt (32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp) của
ta đây là thấy được Phật không?
Tu-Bồ-Ðề thưa:
-
Bạch Thế-Tôn! Không thể cho thấy các tướng tốt của Phật là thấy được Phật.
Tại sao vậy? Vì Như-Lai nói các tướng tốt, không phải thật tướng tốt, chỉ
giả gọi là tướng tốt.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật dùng trí-huệ Kim-Cang Bát-Nhã phá trừ cái chấp: “Thấy sắc thân
và tướng hảo của Phật là thấy được Phật”. Ðây là lần thứ 3 (lần thứ nhất và
nhì ở đoạn 7 và 25) Phật phá cái chấp về việc thấy Phật.
Kinh Kim-Cang, Phật dạy: “Phàm sở hữu-tướng, giai thị hư-vọng” (phàm cái gì
có hình tướng đều là hư dối).
Sắc thân của Phật, do bốn đại hòa hợp giả tạo ra thân tướng, nên thân tướng của
Phật cũng hư vọng không thật, chỉ giả gọi là thân Phật.
Rồi từ trên thân tướng, do bốn đại giả tạo, lại sanh ra nhiều tướng, những tướng
ấy cũng hư vọng không thật, chỉ giả gọi là 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp.
Ðến lúc hoàn thành nhiệm-vụ độ sanh, Phật thâu thần nhập-diệt, xả thân tướng tứ
đại, để vào cõi Niết-bàn, thì xác thân và 32 tướng tốt, do tứ đại giả họp của Phật
cũng theo luật “sanh, trụ, dị, diệt” mà biến đổi. Lúc bấy giờ không còn cái
gì để gọi là sắc thân và tướng tốt.
Bởi thế nên Phật dạy: “Không phải sắc thân, chỉ giả gọi là sắc thân; không
phải tướng tốt, chỉ giả gọi là tướng tốt”. Vì thế nên ông Tu-Bồ-Ðề thưa:
“Không thể cho thấy sắc thân hay thấy tướng tốt của Phật mà cho là thấy được Phật”.
54. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP “NHƯ-LAI CÓ THUYẾT PHÁP”
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Ông chớ nên nghĩa rằng: “Như-Lai có thuyết pháp”. Tại
sao vậy? Nếu người nào không hiểu lời của Phật dạy, lại nói rằng: “Như-Lai
có thuyết pháp”, thì người ấy khinh báng Phật.
-
Tu-Bồ-Ðề! Như-Lai nói “thuyết pháp, tức là không có pháp gì có thể nói được,
mới gọi là thuyết pháp”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật dùng trí-huệ Kim-Cang Bát-Nhã phá trừ cái chấp “Như-Lai có thuyết
pháp”. Ðây là lần thứ 3, Phật phá cái chấp về “Như-Lai có thuyết pháp” (lần
thứ nhất và nhì ở đoạn 11 và 23).
Nếu người nào chấp: “Phật có thuyết pháp”, thì người đó còn chấp ngã (Phật) và chấp
pháp (thuyết pháp). Ðem tâm vọng chấp ngã pháp của phàm-phu mà suy-nghĩa luận
bàn đến chánh-pháp của Phật, thì chánh-pháp của Phật, trở thành vọng-chấp của phàm-phu.
Ngài Xuyên Thiền-sư nói: “Tà nhơn thuyết chánh pháp, chánh pháp tức qui tà”
(người tà nói chánh pháp, pháp chánh trở thành tà). Bởi thế nên Phật nói “người
đó khinh báng Phật”. Vì họ không nhập được “lý Kim-Cang Bát-Nhã”, nên Phật
nói: “họ không hiểu được lời của Phật dạy”.
Ðức Lão-Tử nói: “Ðạo mà có thể nói được, thì không phải thật là Ðạo (Ðạo khả
đạo, phi thường đạo)”. Cũng đồng một ý này, Ðức Phật dạy: “Không có
pháp gì có thể nói được, mới gọi là thuyết pháp”.
Phật nói bài kệ như sau:
Nguyên văn (dịch âm):
Thị tùng thành đạo hậu
Chung chí Bạt-Ðề hà
Ư thị nhị trung-gian
Vị thường thuyết nhứt tự.
Dịch nghĩa:
Từ khi mới thành Phật
Ðến lúc nhập Niết-bàn
Trong khoảng thời gian này
Ta không nói một chữ.
ÐẠI Ý BÀI KỆ
Bài kệ này, nói về lý kinh Bát-Nhã. Cổ-nhơn dạy: “vô thuyết vô văn chơn
Bát-Nhã”, (không nói Bát-Nhã và không nghe Bát-Nhã, mới thật là nói Bát-Nhã và nghe
Bát-Nhã), (xin độc-giả xem lại đoạn giải thứ 11 và 23).
55. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP “THẬT CÓ CHÚNG-SANH”
Khi đó, ông
Tu-Bồ-Ðề thưa Phật:
-
Bạch Thế-Tôn! Ðời sau, nếu có chúng-sanh nào nghe đến kinh Bát-Nhã, không
biết họ có thể tin được không?
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Chúng kia, không phải chúng-sanh, cũng không phải phi chúng-sanh.
Tại sao vậy? Như-Lai nói chúng-sanh, thật không phải chúng-sanh, chỉ giả gọi
là “chúng-sanh”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật dùng trí-huệ Kim-Cang Bát-Nhã phá cái chấp “thật có chúng-sanh”.
Trong tánh Bát-Nhã chơn-không thì ngã và pháp đều không, bốn tướng chẳng còn.
Bốn tướng đã không, ngã chấp chẳng còn, thì đâu có gì là chúng-sanh hay phi chúng-sanh.
Ðã không phải chúng-sanh hay phi chúng-sanh, thì có gì là tin hay không tin.
Ðúng theo tinh-thần kinh Bát-Nhã, nếu còn phân biệt vọng chấp, thì không phải là
thật. Bởi thế nên Phật dạy tiếp: “Như-Lai nói chúng-sanh, không phải
thật chúng-sanh, chỉ giả gọi là chúng-sanh”.
Ngài Phó Ðại-sĩ làm bài tụng, để tóm tắt lại đoạn này, như sau:
Nguyên văn (dịch âm):
Chúng-sanh dữ thọ-giả
Uẩn thượng lập hư danh
Như qui mao bất thật
Tợ thố giác vô hình.
Dịch nghĩa:
Ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả
Trên năm uẩn chỉ có giả danh
Như lông rùa không có thật thể
Tợ như sừng thổ chẳng có hình.
ÐẠI Ý BÀI TỤNG
Tất cả các pháp trên năm uẩn như ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả v.v… đều không
thật có, như lông rùa, sừng thỏ, chỉ có giả danh mà thôi.