BÀI THỨ BA
CHÁNH VĂN
Hỏi: Trên
đã nói thức năng-biến thứ nhứt, còn thức năng-biến thứ hai thế nào?
Ðáp:
NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN
TỤNG VIẾT:
Thứ đệ nhị năng-biến
Thị thức danh Mạt-na
Y bỉ chuyển, duyên bỉ
Tư lương vi tánh tướng.
DỊCH NGHĨA
Luận chủ nói tụng (12 câu) để trả lời rằng: Thức Năng-biến thức hai tên là
Mạt-na. Thức này do thức A-lại-da sanh ra, rồi trở lại duyên thức A-lại-da
chấp làm ngã. Tánh và tướng của nó thường lo nghĩ.
LƯỢC GIẢI
Trước đã nói thức Năng-biến thứ nhứt, tiếp theo đây nói thức Năng-biến thứ hai,
tức là thức thứ Bảy. Tiếng Phạn gọi là Mạt-na, Tàu dịch là Ý. Thức này
là “Căn” của ý-thức, chứ không phải ý-thức (thứ 6).
Thức này nương thức A-lại-da snah-khởi, rồi trở lại duyên thức A-lại-da chấp là
ngã. Cũng như cái tay, từ nơi thân sanh ra, rồi trở lại hộ-vệ cái thân.
Vì thức này tánh hay lo nghĩ, nên hiện ra tướng-trạng bên ngoài cũng lo nghĩ.
NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN
Tứ phiền-não thường câu
Vị: ngã-si, ngã-kiến
Tinh ngã-mạn, ngã-ái
Cập dư xúc đẳng-câu.
DỊCH NGHĨA
Bốn món phiền-não thường chung cùng với thức này là: Ngã-si, Ngã-kiến, Ngã-mạn,
Ngã-ái. Ngoài ra thức này còn tương-ưng với các Tâm-sở, như Xúc, Tác-ý v.v…
LƯỢC GIẢI
Những Tâm-sở thường tương-ưng với thức này, là bốn món phiền-não: 1. Ngã-si (si-mê
cái Ngã), 2. Ngã-kiến (chấp cái Ngã), 3. Ngã-mạn (đề cao cái Ngã của mình, để khinh-mạn
người), 4. Ngã-ái (tham ái cái Ngã).
Bởi thức Mạt-na thường chấp thức A-lại-da làm Ngã, nên bốn món phiền-não tương-ưng
với thức này, cũng đều do cái Ngã mà sanh. Vì thế nên trêen mỗi món phiền-não,
lại thêm chữ Ngã (Ngã-si, Ngã-kiến, Ngã-mạn, Ngã-ái).
Ngoài bốn món phiền-não trên, lại còn có các Tâm-sở, như năm món biến-hành và tùy-phiền-não
v.v… cũng tương-ưng với thức này; nhưng không phải thường có như bốn món phiền-não
trên.
Các Tâm-sở tương-ưng với thức này:
1.
Thường chung khởi: Si, Kiến, Mạn, Ái.
2.
Không thường: Năm món Biến-hành, Tùy-phiền-não v.v…
NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN
Hữu-phú vô-ký nhiếp
Tùy sở sanh sở hệ
A-la-hán, Diệt-định
Xuất-thế-đạo vô hữu.
DỊCH NGHĨA
Tánh của thức này là “hữu-phú vô-ký”. Tùy thức A-lại-da sanh về cảnh-giới
nào, thì thức này theo đó mà chấp Ngã. Khi chứng A-la-hán, nhập Diệt-tận định
và được vào Ðạo xuất-thế, thì không còn thức này.
LƯỢC GIẢI
Vì bị bốn món phiền-não ngăn che, nên tánh của thức Mạt-na thuộc về hữu-phú vô-ký.
Lại nữa, vì thức này do thức A-lại-da sanh ra, nên tùy thức A-lại-da sanh về cõi
nào, thì nó theo chấp-ngã ở cõi đó.
Hỏi: Người
tu-hành phải đến địa-vị nào, mới đoạn được Ngã-chấp và không còn thức Mạt-na?
Ðáp: Có ba địa-vị:
- Ðến địa-vị A-la-hán:
Vì vị này đã xả tàng-thức, nên thức Mạt-na không còn chấp Ngã.
- Nhập diệt-tận-định: Vì định này diệt hết các Tâm-vương
và Tâm-sở của 7 thức trước.
-
Xuất-thế-đạo:
Hành-giả khi đặng cái trí hiểu-biết chơn vô-ngã và đặng trí vô-lậu hậu-đắc, thì
không còn thức Mạt-na.
Ba địa-vị không có Mạt-na
- A-la-hán.
-
Xả Tàng-thức.
-
Không còn Mạt-na.
- Diệt-tận định.
-
Diệt hết Tâm-vương, Tâm-sở của 6 thức trước.
-
Diệt các Tâm-sở về phần tạp-nhiễm của thức Mạt-na.
- Ðạo xuất-thế.
-
Ðược trí hiểu biết chơn vô-ngã.
-
Ðặng trí vô-lậu hậu-đắc.
CHÁNH VĂN
Hỏi: Như
vậy đã nói thức năng-biến thức hai, còn thức năng-biến thứ ba thế nào?
Ðáp:
NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN
Thức đệ tam năng-biến
Sai biệt hữu lục chủng
Liễu cảnh vi tánh tướng
Thiện, bất thiện, câu phi.
DỊCH NGHĨA
Luận-chủ nói tụng (2 bài) để trả lời rằng:
Thức năng-biến thứ ba, có sáu món sai khác. Tánh và tướng của thức nầy đều
phân-biệt cảnh (liễu cảnh). Thức nầy đủ cả ba tánh: Thiện, ác và vô-ký
(câu phi).
LƯỢC GIẢI
Thức năng-biến thứ ba có 6 món: 1. Nhãn-thức, 2. Nhĩ-thức, 3. Tỹ-thức, 4. Thiệt-thức,
5. Thân-thức, 6. Ý-thức. Trong 8 thức, thức nào cũng đều phân-biệt c/anh;
song thức thứ Bảy và thứ Tám chỉ phân-biệt cảnh tế, còn 6 thức trước lại phân-biệt
cảnh thô; nên trong bài tụng nói: “Tánh tướng nó đều phân-biệt cảnh”. Cũng
như mặt trời mặt trăng sáng suốt chiếu soi khắp cả thiên-hạ. Mặt trời mặt
trăng sáng suốt dụ cho bản-tánh của thức này; còn chiếu soi là dụ cho tướng-dụng
của thức này.
Sáu thức này đủ cả 3 tánh: Thiện, ác và vô-ký (không thiện ác).
NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN
Thử tâm-sở biến-hành
Biệt-cảnh, thiện, phiền-não
Tùy phiền-não, bất-định
Giai tam thọ tương-ưng.
DỊCH NGHĨA
Những tâm-sở tương-ưng với thức này, như: biến-hành, biệt-cảnh, thiện, căn-bản phiền-não,
tùy phiền-não, bất-định và ba thọ.
LƯỢC GIẢI
Tâm-sở do tâm-vương đặt-để, cũng như các quan do vua sắp-đặt, như một vị quan lớn
có bao nhiêu nhơn viên. Tâm-sở cũng thế, tất cả 51 món, phân làm 6 loại, mỗi
loại có bao nhiêu món.
Nay xin liệt kê sau đây:
1.
Biến-hành, có 5 món.
2.
Biệt-cảnh, có 5 món.
3.
Thiện, có 11 món.
4.
Căn-bản phiền-não, có 6 món.
5.
Tùy phiền-não, có 20 món.
6.
Bất-định, có 4 món.
Ba thọ là:
khổ-thọ, lạc-thọ và xả-thọ.
Tóm lại, thức này tương-ưng
với 51 món tâm-sở và 3 thọ.