BÀI THỨ NHỨT
DUY-THỨC TAM THẬP TỤNG DỊ GIẢI
GIẢI ÐỀ-MỤC
DUY-THỨC
Thức là phân-biệt; có hai phần:
1.
Sở phân-biệt (bị biết) gọi là cảnh, hoặc gọi là sự vật, tức là núi, sông, ruộng,
vườn…
2.
Năng phân-biệt (cái biết) gọi là thức, tức là cái tác-dụng phân-biệt hay nhận biết
các cảnh vật.
Cảnh vật có hình tướng, thức
không hình tướng. Người đời đều nói hai vật này (vật-chất, tinh-thần) riêng
khác; thật ra năng phân-biệt (biết) và sở phân-biệt (bị biết) cũng đều là thức;
ngoài thức ra, không có vật gì khác. Bởi thế nên gọi là duy-thức.
Người đời vì chấp tất cả sự
vật là thật có, nên không tin lý duy-thức. Nay môn học này, giải-thích cho
người biết: tất cả sự vật, chỉ do thức biến hiện, không phải thật có, nên gọi là
“Duy-thức học”.
TAM THẬP TỤNG
Theo lệ thường, trong kinh Phật, mỗi một bài tụng là bốn câu; nay dùng 30 bài tụng,
để giải-thích nghĩa mầu-nhiệm của Duy-thức, cho nên quyển luận này gọ là “Duy-thức
tam thập tụng”.
DỊ GIẢI
Nguyên-văn bổn luận này có 30 bài tụng, do Ngài Bồ-tát Thiên-Thân tạo ra.
Văn tự đã khó mà nghĩa lý lại thâm, người học rất khó hiểu. Nay tôi giải-thích
bổn luận này, dùng những lời lẽ gọn-gàng dễ hiểu, nên gọi là “Dị-giải”.
CHÁNH VĂN
Hỏi: Nếu chỉ có thức, tại sao
người thế-gian và trong Phật-giáo, đều nói có Ngã và Pháp?
LƯỢC GIẢI
Người đời chấp tất cả sự vật, như núi, sông, cỏ, cây, v.v… đều thật có. Nay
lại nghe nói: “Các cảnh vật ấy đều do thức biến-hiện, chỉ là giả-tướng, chớ
không phải thật có” thì họ quyết-định không tin. Bởi thế nên Luận-chủ đề-xướng
Duy-thức học, đặt ra những lời vấn đáp, để giải-thích các điều nghi-ngờ đó.
Có người hỏi: Nếu chỉ có thức mà thôi, thì tại làm sao, người thế-gian và
trong Phật-giáo đều nói có Ngã, Pháp? Nếu lý Duy-thức đúng, thì lời người
thế-gian và trong Phật-giáo nói sai; còn nếu thế-gian và Phật-giáo nói đúng, thì
lý Duy-thức phải sai. Hai thuyết rất mâu-thuẫn nhau, vậy bên nào nói đúng
lý?
Câu hỏi này rất khó, nếu không phải bực Bồ-tát trí-huệ vô-biên, thì không dễ gì
trả lời được.
“Ngã pháp” nghĩa là gì? “Ngã” là chủ tể (tự chủ, có quyền sắp
đặt). Như người đời chấp thân này là “Ta”;
có quyền tự chủ, tự tại và sai khiến sắp đặt các việc. Như thế gọi là “Ngã”.
“Pháp” là khuôn phép và giữ-gìn;
nghĩa là tự nó giữ-gìn bản-chất của nó, làm cho người xem đến, thì biết là vật gì.
(Nhậm trì tự-tánh, quỹ sanh vật giải).
Như cái bàn ở trước mặt đây, tự nó giữ-gìn bản-chất cứng chắc, hình-dáng dài rộng
hoặc cao thấp và có công-năng chứa vật. Một khi người xem đến thì biết là
cái bàn. Như thế gọi là “Pháp”.
Người thế-gian chấp Ngã, như chấp
thân mạng loài hữu-tình, đều có quyền tự chủ, tự-tại và sai khiến sắp xếp mọi việc.
Người thế-gian chấp Pháp, không
ngoài ba điểm: Thật (bản-chất), Ðức (hình-dáng), Năng (công-dụng). Như
họ chấp nhà cửa cỏ cây v.v… là thật có (thật) hình-dáng tốt hay xấu (đức) và công-dụng
của nó (nghiệp); mỗi món đều gọi là một pháp.
Trong Phật-giáo nói Ngã, như nói
“Tu-Ðà-Hoàn, Tư-Ðà-Hàm, A-Na-Hàm, A-La-Hán v.v…” Mỗi tên đều hàm ẩn ý-nghĩa:
ta đã chứng, ta được tự chủ và tự-tại.
Trong Phật-giáo nói Pháp, như nói
“5 uẩn, 12 xứ, 18 giới v.v…” Mỗi Pháp đều tự giữ-gìn bản-chất (tự tánh) và
hình-dáng của nó; khi người xem đến, có thể biết đó là vật gì.
Nhưng chúng ta phải chú-ý ở điểm này: Trong Phật-giáo nói “Ngã”, không đồng
với người thế-gian “chấp ngã”. Như kinh Kim-Cang nói: “Gọi là Tu-Ðà-Hoàn
(Nhập-lưu) mà không có Tu-Ðà-Hoàn (vô sở nhập), thế mới gọi là Tu-Ðà-Hoàn v.v…”
Ðem đoạn kinh này để chứng-minh, thì chúng ta thấy trong kinh tuy nói “Ngã”, song
chỉ có giả-danh mà thôi, không phải như thế-gian chấp có thật Ngã.
Ðáp:
NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN
TỤNG VIẾT:
Do giả thuyết Ngã Pháp
Hữu chủng chủng tướng chuyển
Bỉ y thức sở biến.
DỊCH NGHĨA
Luận-chủ nói ba câu tụng để
trả lời rằng: Thế-gian và Thánh-giáo đều giả nói có Ngã, Pháp; bởi vì các
tướng Ngã, Pháp kia đều do thức sanh ra vậy.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý ba câu tụng này nói: Do thế-gian và Thánh-giáo đều giả nói có Ngã, Pháp,
rồi từ trên thức của người nghe tự biến ra hình tướng của Ngã, Pháp.
NÓI VỀ TƯỚNG NGÃ, PHÁP CỦA THẾ-GIAN
Như có người đang ngồi yên trong nhà tối, bỗng nghe người nói: “Ở góc nhà
kia có con quỉ”. Lúc bấy giờ trên thức của họ liền biến ra con quỉ, tóc tai
xù-xụ, hình tướng rất ghê sợ, muốn chụp bắt người. Thật ra không có quỉ, nhưng
trên thức người nghe lại biến ra quỉ. Ðây là tướng Ngã của thế-gian, do thức
biến vậy.
Có người ngồi trong nhà, nghe nói: “Tuyết rơi ngoài sân”. Lúc bấy giờ
trên thức họ tự biến ra hình tướng tuyết bay trắng xóa. Thật ra không có tuyết,
nhưng trên thức của người nghe lại biến ra có hình tướng của tuyết. Ðây là
tướng Pháp của thế-gian, do thức biến ra vậy.
NÓI VỀ TƯỚNG NGÃ, PHÁP TRONG THÁNH-GIÁO
Như có người nghe trong kinh nói: “Phật có 32 tướng”. Rồi từ trên thức
của họ tự biéen ra tướng Phật tốt đẹp lạ thường. Ðây là tướng “Ngã” trong
Thánh-giáo, do thức biến ra.
Hoặc nghe nói: “Cõi Phật có 7 món báu trang-nghiêm”; rồi từ trên thức của
họ biến ra cảnh Tịnh-độ. Ðây là tướng “Pháp” trong Thánh-giáo, do thức biến-hiện.
Ngoại nhơn đã nghe Luận-chủ nói: “Các tướng Ngã, Pháp đều do thức biến-hiện”,
thế tất-nhiên họ phải nghi rằng:
-
Hình tướng của thức thế nào?
-
Và có bao nhiêu chủng loại?
Vì đoán tâm-lý của ngoại nhân,
nên Luận-chủ nói tiếp ba câu tụng, để trả lời rằng:
NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN
Thử năng-biến duy tam
Vị: Dị-thục, Tư-lương
Cập Liễu-biệt-cảnh thức.
DỊCH NGHĨA
Thức Năng-biến này có ba loại:
1.
Dị-thục thức (thứ thứ tám).
2.
Tư-lương thức (thức thứ bảy).
3.
Liễu-biệt-cảnh thức (6 thức trước).
LƯỢC GIẢI
Ðoạn trên nói: “Do thức biến ra các tướng Ngã, Pháp”. Ðã có cảnh sở-biến
(bị biến) tất-nhiên phải có thức năng-biến.
Ðoạn này nói về thức năng-biến. Thức năng-biến có ba loại:
1.
Dị-thục thức, tức là thức thứ Tám.
2.
Tư-lương-thức, tức là thức thứ Bảy.
3.
Liễu-biệt-cảnh thức, tức là 6 thức trước (từ nhãn-thức cho đến ý-thức).
Ba loại thức Năng-biến này,
nếu phân-tích ra thì có tám thức (Nhãn-thức, Nhĩ-thức, Tỹ-thức, Thiệt-thức, Thân-thức,
Ý-thức, Mạt-na thức và A-lại-da thức).