BÀI THỨ BA
TÂM-VƯƠNG
(CÓ 8 MÓN)
Tám món tâm này rất thù-thắng, tự-tại và tự-chủ; cũng như vị Quốc-vương, nên gọi
là Tâm-vương (nhứt thế tối thắng cố).
NĂM THỨC TRƯỚC
(TIỀN NGŨ THỨC)
1. Nhãn-thức.
Cái biết của con mắt.
Vì thức này nương nhãn-căn, khởi ra tác-dụng phân-biệt về sắc-trần, nên gọi là “Nhãn-thức”.
2. Nhĩ-thức.
Cái biết của lỗ tai.
Vì thức này nương nhĩ-căn, khởi ra tác-dụng phân-biệt về thinh-trần, nên gọi là
“Nhĩ-thức”.
3. Tỹ-thức.
Cái biết của mũi. Vì
thức này nương tỹ-căn, khởi ra tác-dụng phân-biệt về hương-trần, nên gọi là “Tỹ-thức”.
4. Thiệt-thức.
Cái biết của lưỡi. Vì
thức này nương thiệt-căn, khởi ra tác-dụng phân-biệt về vị-trần, nên gọi là “Thiệt-thức”.
5. Thân-thức.
Cái biết của thân. Vì
thức này nương thân-căn, khởi ra tác-dụng phân-biệt về xúc-trần, nên gọi là “Thân-thức”.
Trong 8 thức Tâm-vương, vì
5 thức này ở bên ngoài và trước, nên cũng gọi là “Tiền ngũ thức” (năm thức trước).
KHI Ở ÐỊA-VỊ PHÀM-PHU, NĂM THỨC NÀY ÐỐI VỚI:
1. Ba cảnh: Năm thức này chỉ có “Tánh-cảnh”.
2. Ba lượng: Năm thức này chỉ có “Hiện-lượng”.
3. Ba tánh: Năm thức này có đủ 3 tánh: Thiện, Ác và Vô-ký.
4. Năm thọ: Năm thức này chỉ có 3 thọ: Khổ, Lạc và Xả-thọ.
5. Ba cõi: Ở cõi Dục thì năm thức này đủ cả, đến cõi Sắc chỉ còn 3 thức: Nhãn,
Nhĩ và Thân; vì hai thức Tỹ và Thiệt không hiện-hành (Nhãn, Nhĩ, Thân tam Nhị-địa
cư).
6. Chín địa: Năm thức này chỉ ở trong hai địa: 1. Ngũ-thú-tạp-cư địa,
tức là cõi Dục thuộc về Sơ-địa. 2. Ly, sanh-hỷ-lạc địa, ở cõi Sắc, thuộc
Sơ-thiền gọi là Nhị-địa.
7. Năm mươi mốt Tâm-sở: Năm thức này chỉ tương-ưng 34 Tâm-sở: 5 món Biến-hành, 5 món
Biệt-cảnh, 11 món Thiện, 3 món Căn-bản phiền-não, 2 món Trung-tùy và 8 món Ðại-tùy.
8. Chín duyên: Nhãn-thức đủ 9 duyên, Nhĩ-thức chỉ còn 8 duyên (thiếu
Minh), 3 thức Tỹ, Thiệt và Thân chỉ có 7 duyên (thiếu Minh và Không).
9. Thể:
Thể của 5 thức này, chỉ có Tự-tánh phân-biệt, không có Tùy-niệm phân-biệt và Kế-đạt
phân-biệt.
10. Tướng:
Thức với căn khó phân (ngu-giả nan phân thức dữ căn).
11. Nghiệp-dụng:
Duyên trần-cảnh. Song 2 thức: Nhãn và Nhĩ phải cách trần-cảnh mới phân-biệt
được. Còn 3 thức: Tỹ, Thiệt và Thân phải hiệp với trần-cảnh mới phân-biệt
được.
KHI LÊN THÁNH-VỊ, NĂM THỨC NÀY ÐỐI VỚI:
1. Quán hạnh (tu).
Khi lên Thánh-vị, thì 5 thức này chuyển thành “Hậu-đắc-trí”, và biến ra cái Tướng-phần
của 2 món chơn-như (Sanh-không chơn-như và Pháp-không chơn-như) mà quán (duyên).
2. Ðoạn hoặc và chuyển thành trí.
Khi thức thứ Tám đã chuyển thành “Ðại-viên cảnh-trí”, thì các căn được vô-lậu; lúc
bấy giờ 5 thức này cũng được vô-lậu và chuyển làm “Thành-sở tác-trí”.
3. Chứng quả và diệu-dụng.
Khi chứng quả-vị Phật thì 5 thức này chuyển làm “Thành-sở tác-trí”. Lúc bấy
giờ nó có công-dụng hóa-hiện ra 3 loại thân để giáo-hóa và dứt trừ các khổ sanh-tử
luân-hồi cho chúng-sanh.
Ba loại thân:
1.
Thân Ðại hóa tức là Thắng-ứng thân. Thân này cao 1.000 trượng, để giáo-hóa
hàng Ðại-thừa Bồ-tát.
2.
Thân Tiểu-hóa tức là Liệt-ứng thân. Thân này cao một trượng sáu thước, để
giáo-hóa hàng Tam-hiền Bồ-tát cùng Nhị-thừa và phàm-phu.
3.
Thân Tùy-loại-hóa. Thân này tùy theo loại chúng-sanh mà hóa-hiện.
Vì muốn cho người học dễ nhớ,
nên trong Bát-thức Qui-củ, Ngài Huyền-Trang Pháp-sư có làm ba bài tụng tóm-tắt lại
5 thức như sau. Hai bài tụng đầu là nói 5 thức này khi còn ở địa vị phàm-phu,
bài tụng thứ ba là nói lên Thánh-vị.
BÀI TỤNG THỨ NHẤT
Tánh-cảnh Hiện-lượng thông tam Thánh
Nhãn, Nhĩ, Thân tam Nhị địa cư
Biến-thành, Biệt-cảnh, Thiện thập nhứt
Trung nhị, Ðại bát, Tham, Sân, Si.
Dịch nghĩa:
Tánh-cảnh, Hiện-lượng thông ba Tánh
Nhãn, Nhĩ, Thân ba ở Nhị-địa
Biến-hành, Biệt-cảnh, Thiện mười một
Trung hai, Ðại tám, Tham, Sân, Si.
LƯỢC GIẢI:
Trong 3 Cảnh thì 5 thức này chỉ có “Tánh-cảnh”; trong 3 Lượng, nó chỉ có “Hiện-lượng”;
còn ba Tánh thì nó đủ cả Thiện, Ác và Vô-kỷ.
Ở cõi Dục là Sơ-địa, thì đủ cả 5 thức. Lên cõi Sắc về Nhị-địa, thì chỉ còn
ba thức là: Nhãn, Nhĩ và Thân.
Nói về Tâm-sở, thì 5 thức này tương-ưng với 34 món: 5 món Biến-thành, 5 món
Biệt-cảnh, 11 món Thiện, 2 món Trung-tùy, 8 món Ðại-tùy và 3 món Căn-bản phiền-não
là: Tham, Sân và Si.
BÀI TỤNG THỨ HAI
Ngũ thức đồng y Tịnh-sắc căn
Cửu duyên, bát, thất hảo tương lân
Hiệp tam, ly nhị, quán trần-thế
Ngu giả nan phân thức dữ căn.
Dịch nghĩa:
Năm sắc đồng nương Tịnh-sắc
căn
Chín, tám, bảy duyên ưa gần nhau
Ba hiệp, hai rời, duyên trần-cảnh
Ngu giả khó phân Thức và Căn.
LƯỢC GIẢI:
Căn, có hai loại:
1.
Phù-trần căn: Căn thô-phù bên ngoài.
2.
Tịnh-sắc căn: Căn thanh-tịnh tinh-tế ở bên trong; cũng gọi là “Thắng-nghĩa
căn”, vì căn này rất thù-thắng.
Năm thức đều nương 5 căn Tịnh-sắc và nhờ có các duyên mới sanh ra được. Như
Nhãn-thức nhờ 9 duyên, Nhĩ-thức chỉ còn 8 duyên, Tỹ, Thiệt và Thân mỗi thức chỉ
có 7 duyên.
Ba thức: Tỹ, Thiệt và Thân phải hiệp với trần-cảnh mới duyên được; còn hai thức
là Nhãn và Nhĩ phải cách hở trần-cảnh mới duyên được.
Chúng phàm-phu và hàng Nhị-thừa vì chấp pháp nặng-nề, nên khó phân-biệt cái nào
là Thức và cái nào là Căn. Vì thế, mà cả hai đều bị gọi là “Ngu-giả”.
BÀI TỤNG THỨ BA
Biến tướng quán không duy Hậu-đắc
Quả trung du tự bất thuyên chơn
Viên-minh sơ phát thành Vô-lậu
Tam loại phân thân tức khổ luân.
Dịch nghĩa:
Trí Hậu-đắc biến tướng không, quán (duyên)
Khi chứng quả còn chẳng nói chơn
Viên-minh vừa phát thành Vô-lậu
Phân thân ba loại, dứt khổ luân.
LƯỢC GIẢI:
Năm thức này không có “Căn-bản trí” mà chỉ có “Hậu-đắc-trí”. Khi duyên chơn-như
thì nó chỉ biến lại tướng-phần của hai món chơn-như (Sanh-không chơn-như và Pháp-không
chơn-như) mà duyên, chớ không thể trực-tiếp thân-duyên được; vì nó không có “Căn-bản
trí” nên không thể thân-duyên.
Khi chứng được Thánh-quả, cũng không thể nói “Năm thức này thân-duyên được chơn-như”,
huống chi là trong lúc tu nhơn.
Ðến khi thức thứ Tám vừa chuyển thành Ðại-viên-cảnh trí (viên-minh sơ phát) thì
5 thức này thành Vô-lậu. Lúc bấy giờ, 5 thức này có công-dụng hiện ra ba loại
thân để hóa-độ và dứt trừ các khổ sanh-tử luân-hồi cho chúng-sanh.
Câu “Biến tướng không quán”: Biến lại tướng chơn-như mà duyên. Chữ “Tướng-không”
là tướng Ngã-không và Pháp-không tức là Chơn-như (nhị không Chơn-như). Chữ
“Quán” là duyên. Nghĩa là: Trí Hậu-đắc này chỉ biến lại tướng Chơn-như
mà duyên.
Chữ “Nói chơn”: Nghĩa là nói thân-duyên Chơn-như.