BÀI THỨ SÁU
VI.- CHƯƠNG THANH TỊNH HUỆ
1.- NGÀI THANH TỊNH HUỆ BỒ TÁT
HỎI PHẬT
Khi ấy Ngài Thanh Tịnh Huệ Bồ tát ở
trong đại chúng đứng dậy đi quanh bên hữu của Phật ba vòng, rồi chắp tay kính cẩn,
đảnh lễ dưới chân Phật và quỳ thẳng bạch rằng:
-
Bạch đức Thế Tôn, ngài đã vì chúng con, khôn khéo rộng nói những việc không thể
nghĩ bàn. Những việc mà chúng con từ hồi đến giờ, chưa từng thấy và chưa từng
nghe, hôm nay nhờ Phật khai thị khiến chúng cho chúng con được hiểu ngộ, thân tâm
khoan khoái vui mừng, đặng lợi ích rất lớn.
-
Bạch đức Thế Tôn, xin ngài vì các vị Bồ tát và tất cả chúng sanh trong pháp hội
nầy, chỉ dạy thứ lớp tu chứng của Như Lai như thế nào để cho chúng sanh hiện tại
và đời sau, nhơn nghe lời Phật dạy đây, mà được khai ngộ, lần lượt tùy thuận vào
tánh Viên Giác của đức Pháp Vương (Phật).
Ngài Thanh Tịnh Huệ thưa thỉnh xong như vậy ba lần, kính cẩn lạy Phật rồi trở lui.
LƯỢC GIẢI
Đại ý đoạn nầy, ngài Thanh Tịnh Huệ Bồ tát hỏi Phật: Trên đường lối tu hành, từ
địa vị phàm phu đến quả vị Phật, phải trải qua bao nhiêu địa vị? thứ lớp tu chứng
sai khác thế nào? Cầu Phật chỉ dạy, khiến cho chúng sanh được hiểu ngộ, lần
lượt nhập vào tánh Viên Giác.
Thanh Tịnh Huệ là trí huệ thanh tịnh,
tức là Bát nhã huệ. Từ chương nầy đến chương sau là chú trọng về việc hạ thủ
công phu. Trong khi tu hành bất luận giờ phút nào, cũng phải dùng Bát nhã
trí để lãnh đạo; cho nên chương nầy Ngài Thanh Tịnh Huệ đứng lên thưa hỏi là tiêu
biểu cho Bát nhã huệ vậy.
2.- PHẬT KHEN NGÀI THANH TỊNH HUỆ BỒ
TÁT
Khi đó đức Thế Tôn khen ngài
Thanh Tịnh Huệ Bồ Tát và dạy rằng:
-
Nầy Thiện nam, quí lắm! Ông vì các Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau thưa hỏi
Như Lai về thứ lớp tu chứng sai khác như thế nào. Vậy các ông nên chăm chú
nghe, ta sẽ vì các ông chỉ dạy.
Khi đó ngài Thanh Tịnh Huệ Bồ Tát và đại chúng đều hoan hỷ và kính cẩn vâng nghe
lời Phật chỉ giáo.
3.- PHẬT DẠY: TRONG VIÊN GIÁC KHÔNG
CÓ BỒ TÁT VÀ CHÚNG SANH
-
Nầy Thiện nam! Trong tánh Viên Giác thanh tịnh, không tất cả pháp, mà có đủ tất
cả pháp. Nó tùy thuận các duyên biến hiện ra đủ tất cả, mà không thủ và không
chứng. Thí như con mắt, thấy được tất cả vật, mà không tự thấy mình.
Nó vẫn bình đẳng mà không tự thấy mình bình đẳng.
-
Nầy Thiện nam! Trong thật tướng (Viên Giác) không có Bồ tát và chúng sanh.
Tại sao thế? - Bởi Bồ tát và chúng sanh đều là huyễn hóa vậy. Khi các tướng
huyễn hóa diệt rồi, thì không có người năng chứng và quả sở chứng.
-
Chúng sanh vì còn mê muội điên đảo nên chưa diệt trừ được các tướng huyễn hóa.
Vì chúng sanh vọng khởi công dụng, để đối trị các tướng huyễn hóa, bởi có những
tướng huyễn hóa đã diệt và chưa diệt, nên chúng mới thấy có thứ lớp tu chứng sai
khác. Nếu người đặng túy thuận tánh Viên Giác tịch diệt của Như Lai rồi, thì
không còn thấy có cảnh tịch diệt và người tịch diệt nữa.
LƯỢC
GIẢI
Đại ý đoạn nầy Phật nói: Trong tánh Viên Giác vốn không có tất cả pháp, mà tùy duyên
hiện ra đủ tất cả các pháp sai khác. Đoạn nầy giống với đoạn trong kinh Lăng
Nghiêm, Phật thí dụ cây đờn: Trong cây đờn không có các bài bản hay và dở; song
tùy duyên nó hiện ra đủ các tiếng hay và dở.
Trong tánh Viên Giác không có năng thủ sở thủ và năng chứng sở chứng, không Bồ tát
và chúng sanh. Vì chúng sanh chưa diệt trừ được các tướng huyễn hóa, nên vọng
khởi công dụng để dẹp trừ các tướng vọng huyễn nầy. Vì thế mà thấy có chứng
và có đắc, bực lớp sai khác. Nếu người tùy thuận được tánh Viên Giác tịch
diệt của Như Lai rồi thì không còn thấy có một pháp nào cả.
Trong đoạn nầy có cái ví dụ: “Như con mắt không tự thấy con mắt”. – Cái ví
dụ nầy chỉ cho tánh bình đẳng và vô công dụng của Viên Giác. Tánh Viên Giác
tùy duyên hiện ra các pháp mà không thủ, không chứng. Cũng như con mắt bình
đẳng chiếu soi tất cả vật, mà không thấy mình có chiếu soi là bình đẳng.
4.- PHÀM PHU TÙY THUẬN TÁNH VIÊN GIÁC
(ĐỊA VỊ THẬP TÍN)
-
Nầy Thiện nam! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến giờ, do lầm tưởng có “thật ta và
vật của ta”, rồi sanh lòng thương yêu cái ta và vật của ta, cho nên gặp cảnh nghịch
với ta thì giận ghét, còn thuận với ta thì tham ái, say mê theo cảnh ngũ dục.
Chúng chưa từng biết thân tâm nầy là hư vọng, mỗi niệm sanh diệt luôn luôn, không
có thật ta.
-
Nếu gặp thiện hữu tri thức dạy bảo, chúng được khai ngộ tánh Viên Giác thanh tịnh,
hiểu rõ thân tâm nầy là hư vọng, mỗi niệm sanh diệt không thật có cái ta; lúc bấy
giờ chúng mới tự xác nhận rằng: thân tâm nầy là “trần lao vọng lự”.
-
Những người nào đoạn trừ được vĩnh viễn các trần lao vọng lự nầy, thì ngộ pháp giới
thanh tịnh, nhưng đối với tánh Viên Giác chưa được tự tại, vì còn bị cái “biết thanh
tịnh” nó làm chướng ngại, những người như thế thì gọi là kẻ phàm phu tùy thuận tánh
Viên Giác.
LƯỢC
GIẢI
Đoạn trên (số 3) là dựng về tánh Viên Giác thanh tịnh bình đẳng mà nói, nên không
có Bồ tát và chúng sanh sai khác. Nhưng đứng về phương diện sự tướng tu hành
mà luận thì có lớp lang tu chứng rõ ràng. Bởi thế nên từ đoạn nầy (số 4) về
sau là nói thứ lớp nhập Viên Giác, bắt đầu từ vị Thập Tín, Tam Hiền, Thập Thánh
và đến quả Phật.
Đại ý đoạn nầy nói hàng Thập Tín tùy thuận tánhViên Giác. - Bởi tất cả chúng
sanh từ vô thỉ đến giờ vì mê lâm chấp ta và cảnh vật của ta là chơn thật, cho nên
sanh ra tham, sân v.v… Nếu gặp Thiện Tri Thức dạy bảo, chúng giác ngộ được
cái “ta” và “cảnh vật của ta” đều hư vọng, sanh diệt không thật, thì lúc bấy giờ
chúng mới trừ được ngã chấp, đặng pháp giới Thanh tịnh. Nhưng vì còn “biết
thanh tịnh” thế là còn pháp chấp chưa trừ, nên còn chướng ngại tánh Viên Giác.
Vì thế nên gọi là “chúng Phàm phu (vị Thập Tín) tùy thuận tánh Viên Giác”.
5.- BỒ TÁT Ở VỊ TAM HIỀN, TÙY THUẬN
TÁNH VIÊN GIÁC
-
Nầy Thiện nam! Tất cả các vị Bồ tát, vì còn chấp cái “biết thanh tịnh” (giải) nên
chướng ngại tánh Viên Giác. Nay tuy đoạn được cái chướng ngại đó (cái biết
thanh tịnh) nhưng còn trụ ở cái “giác”, nên tánh Viên Giác vẫn còn bị chướng ngại,
không được tự tại. Bởi thế nên gọi là bực Tam Hiền Bồ Tát, tùy thuận tánhViên
Giác.
LƯỢC GIẢI
Các vị Bồ tát nầy, tuy rời được cái “biết thanh tịnh”, nhưng còn cái “biết giác”.
Vì còn cái “biết giác” làm chướng ngại nên tánh Viên Giác không được hiển hiện.
Đại ý đoạn nầy nói: Bực Tam hiền Bồ Tát tùy thuận tánh Viên Giác. Tam Hiền
là: Thập trụ, Thập hạnh, và Thập hồi hướng.
6.- BỒ TÁT LÊN THÁNH VỊ, TÙY THUẬN TÁNH
VIÊN GIÁC
-
Nầy Thiện nam! Nếu còn “biết” (chiếu) và còn có “giác”, thì đều còn chướng ngại
(vì còn năng và sở).
-
Thế nên Bồ tát thường “giác” mà không trụ nơi “giác”, năng chiếu và sở chiếu đồng
vắng lặng. Bồ tát tự dùng tâm chướng ngại diệt trừ các chướng ngại (dĩ vọng
diệt vọng), khi các chướng ngại diệt hết, cũng không còn người năng diệt.
Thí như có người tự mình chặt lấy đầu mình, khi cái đầu đã rụng rồi thì cũng không
có người chặt (năng đoạn).
-
Nầy Thiện nam! Tất cả kinh giáo của Như Lai là ngón tay để chỉ mặt trăng Viên Giác
(chơn lý). Vậy các ông phải biết: đây là ngón tay kinh giáo chớ không phải
mặt trăng Viên Giác. Nếu các ông chỉ cố chấp ngón tay, thì không bao giờ thấy
được mặt trăng. Những người biết nhơn ngón tay kinh giáo nầy, mà nhận
được mặt trăng Viên Giác, thì gọi là Bồ tát lên Thánh địa, tùy thuận tánh Viên Giác.
LƯỢC GIẢI
Đoạn trên nói Bồ tát ở vị Tam Hiền còn “biết” và còn “giác”. Đến đoạn nầy
nói: Bồ tát đã lên Thánh địa, tuy thường “giác” mà không trụ trước nơi “giác” vì
không còn năng và sở.
Cũng như người tự chặt cái đầu của mình, khi cái đầu rụng rồi thì không có người
chặt và kẻ bị chặt.
Tất cả kinh giáo của Phật đều là phương tiện để chỉ chơn lý (Viên Giác). Hành
giả phải phương tiện để đến chơn lý; nếu cố chấp nơi phương tiện thì không bao giờ
đến chơn lý.
Giáo pháp của Phật cũng như ngón tay chỉ mặt trăng. Người muốn thấy mặt trăng
thì phải nhơn ngón tay mà xem; khi thấy mặt trăng (chơn lý) rồi thì phải quên ngón
tay (phương tiện). Nếu cố chấp nơi ngón tay (phương tiện) thì người ấy không
bao giờ thấy mặt trăng chơn lý.
Cái thí dụ nầy giống nhụ trong kinh Lăng Nghiêm, Phật thí dụ “ngón tay chỉ mặt trăng
v.v…”
7.- NHƯ LAI TÙY THUẬN TÁNH VIÊN GIÁC
-
Nầy Thiện nam! Tất cả sự chướng ngại tức là Cứu kính giác, chánh niệm hay vọng niệm
đều là Giải Thoát, trì giới hay phá giới đều là Niết Bàn; trí huệ hay ngu si cũng
đều là Bát Nhã; Bồ tát và ngoại đạo đồng là Bồ đề; Vô minh và Chơn như đồng một
cảnh giới; giới, định, huệ, và dâm, nộ (giận), si đều là hạnh thanh tịnh; chúng
sanh và quốc độ đồng một pháp tánh; điạ ngục và Thiên đường đều là tịnh độ; hữu
tình và vô tình đều là thành Phật đạo; tất cả phiền não là rốt ráo giải thoát, vì
biển huệ pháp giới chiếu soi các tướng cũng như hư không. Đây gọi là Như Lai
tùy tuận tánh Viên Giác.
LƯỢC GIẢI
Các đoạn trên đã nói: từ vị Thập Tín, thì bị các “biết tịnh” làm ngại; qua vị Tam
Hiền, lại bị cái “biết giác” làm ngại; đến vị Thập thánh, tuy đã lìa hết các ngại,
nhưng hãy còn cái “thường giác” chưa được Viên dung.
Đoạn nầy nói về quả vị Phật, đã hoàn toàn nhập Viên Giác tánh, thấy tất cả pháp
đồng một bản thể, nên nói: “Các chướng ngại tức là cứu kính giác, chánh niệm và
tà niệm đều là giải thoát, phiền não sanh tử tức là Bồ đề, Niết bàn, trí huệ, ngu
si đều là Bát nhã, v.v…”
Bởi thế nên Cổ đức có dạy rằng: “Mê thời Chơn như thành vọng tưởng, ngộ thời vọng
tưởng tức Chơn như”.
8.- TÓM LẠI
-
Nầy Thiện nam! Các vị Bồ tát và chúng sanh đời sau, chỉ trong tất cả thì giờ không
khởi vọng niệm phận biệt, đối với các vọng tâm cũng chẳng cần diệt trừ, ở cảnh vọng
tưởng, chẳng gia thêm phân biệt, ở nơi cảnh không rõ biết, chẳng cần phân biệt chơn
thật, khi nghe đến pháp môn nầy, không lấy làm lạ lùng và kinh hãi, lại sanh tâm
tin chắc, hiểu biết rõ ràng, lãnh thọ và phụng trì, thì ta gọi chúng sanh nầy là
người tùy thuận tánh Viên Giác.
-
Nầy Thiện nam! Các ông phải biết: Những chúng sanh tùy thuận như thế là đã nhiều
đời tu hành, từng trồng rất nhiều công đức; cúng dường các đức Phật và các vị Bồ
tát nhiều như số cát sông Hằng. Ta ấn chứng cho những người nầy sẽ thành tựu
“Nhứt thế chủng trí” (Phật trí).
LƯỢC GIẢI
Đoạn nầy Phật dạy cốt yếu có một câu: “Chỉ trong tất cả thì giờ, không khởi vọng
niệm, v.v… đó là tùy thuận tánh Viên Giác”. Nghĩa là: nếu trong tất cả thời
mà vọng niệm không sanh khởi, thì tham, sân, si, không sanh; 3 độc không sanh thì
3 nghiệp chẳng tạo, các nghiệp không tạo thì chẳng còn sanh tử luân hồi; sanh tử
đã không thời chơn tâm tự hiện, như thế là tùy thuận tánh Viên Giác. Tỷ như
nước đục để trên bàn, nếu trong tất cả thì giờ đều được yên lặng, không bị chao
động, thì tánh nước trong tự hiện.
Đoạn nầy giống như trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy “Bất tùy phân biệt”. (Không
theo trần cảnh khởi vọng niệm phận biệt). Thật là một pháp tu mau chóng (viên
đốn), nếu không phải người nhiều kiếp tu hành, đã từng trồng căn lành từ nhiều đời
Đức Phật, thì không thể lãnh thọ nỗi pháp môn nầy.
Tóm lại, Phật dạy: Nếu các Bồ tát và chúng sanh đời sau, chỉ trong tất cả thời không
khởi vọng niệm, cũng không cần để tâm diệt trừ vọng niệm v.v…, những chúng sanh
thật hành được như thế là căn lành của chúng đã trồng sau từ nhiều đức Phật, và
chúng đã nhập được tánh Viên Giác, sẽ thành quả Phật.
Ngài Thanh Tịnh Huệ hỏi thứ lớp tu chứng của Như Lai, đến đây Phật trả lời xong
hết.
9.- PHẬT NÓI BÀI KÊ TÓM LẠI CÁC NGHĨA
TRÊN
Khi ấy đức Thế Tôn, muốn tóm lại các
nghĩa trên, nên nói bài kệ rằng:
Thanh Tịnh Huệ! phải biết:
Viên mãn tánh Bồ đề,
Không còn thủ và chứng,
Không Bồ tát, chúng sanh.
Giác và khi chưa giác,
Thứ lớp có sai khác,
Chúng sanh bị “biết” ngại (Thập tín)
Bồ tát bị “giác” ngại (Tam Hiền)
Thánh địa hằng vắng lặng (Thập Thánh)
Vì không trụ các tướng,
Viên mãn quả Đại Giác,
Nên gọi “khắp tùy thuận” (Phật).
Các chúng sanh đời sau
Tâm chẳng sanh hư vọng
Ta nói chúng sanh nầy,
Hiện đời là Bồ tát,
Vì cúng dường chư Phât,
Công đức viên mãn.
Tuy có nhiều phương tiện,
Cũng đều tùy thuận Giác.
LƯỢC GIẢI
Đại ý bài kệ nầy Phật dạy: Tánh Viên Giác không có thủ và chứng, không Bồ tát và
chúng sanh. Nhưng về thứ lớp tu hành thì có phân ra Tín vị, Hiền vị, Thánh
vị, và Phật vị. Nếu như chúng sanh nào tâm chẳng sanh vọng tưởng, là Bồ tát
hiện tại, vì chúng sanh nầy đã trồng công đức từ hằng sa chư Phật.
Pháp môn tu tuy có nhiều và thứ lớp chứng đạo có sai khác, nhưng cũng đều về tánh
Viên Giác.
Trong chương Thanh Tịnh Huệ nầy, ngài Thanh Tịnh Huệ hỏi Phật thứ lớp tu chứng như
thế nào? Phật trả lời có hai phần.
1. Đứng
về lý tánh Viên Giác mà nói thì không có Bồ tát và chúng sanh, không thủ và không
chứng.
2. Về
sự tướng tu hành thì có thứ lớp sai khác. Như về Tín vị thì bị cái “biết”
(giả) làm ngại, ở về Hiền vị thì còn bị cái “giác” làm ngại, vào Thánh vị tuy được
tịch diệt, nhưng chưa được Viên mãn.
Tóm lại, Phật dạy một câu: “Nếu người đối với tất cả thời, không khởi vọng niệm,
thì được tùy thuận tánh Viên Giác”.