BÀI THỨ BẢY
I. HƯ-KHÔNG TỪ CHƠN-TÂM BIẾN-HIỆN.
- A-Nan, hư-không vô hình, nhơn các hình sắc mà hiển bày ra. Như ở
trong thành Thất-la này, khi dân-chúng mới cất nhà, thì họ đào giếng để múc nước.
Ðào một thước đất, thì thấy có một thước hư-không hiện ra; đào xuống mười thước,
thì thấy có mười thước hư-không hiện ra; hư-không cạn hay sâu là tùy người đào nhiều
hay ít. Vậy hư-không này là do đất sanh, do đào mà có, hay không do đâu mà tự sanh?
- A-Nan, hư-không này, nếu không do đâu mà tự sanh, thì khi chưa đào
sao không thấy có hư-không, mà chỉ thấy đất đặt? Còn nói “hư-không do đào mà có”,
thì khi quăng đất ra, đáng lẽ phải thấy hư-không vào. Nếu quăng đất ra trước mà
không thấy hư-không vào, thời sao lại nói “hư-không do đào đất mà có”. Nếu hư-không
không ra vào, thời đáng lẽ nó cùng với đất không khác; nếu không khác thời đồng
với đất. Vậy khi quăng đất ra, sao chẳng thấy hư-không ra?
- Nếu nói “hư-không do đào đất mới có”, thời khi đào, đáng lẽ phải
ra hư-không, chớ sao lại ra đất? Còn nói “hư-không chẳng do đào mà ra” thì khi đào
ra đất, tại sao thấy có hư-không?
- Các ông nên chín-chắn quan-sát: đào là từ nơi tay người, tùy theo
chỗ mà đào. Còn đất cục là nhơn chỗ đất cái dời đi. Ðào là việc thật, còn hư-không
thì trống không, hai cái không dính-líu gì với nhau, không hòa không hiệp. Vậy hư-không
từ nơi đâu mà ra, không lẽ không nhơn đâu mà hư-không tự có.
- Các ông không biết trong chơn-tâm, tánh (bản-thể) của hư-không (tâm)
là chơn-giác (tâm); tánh (bản-thể) của giác (tâm) là chơn-không, vốn sẵn thanh-tịnh,
khắp giáp cả pháp-giới, tùy theo tâm chúng-sanh thế nào, thì nó hiện ra thế ấy.
Một chỗ đào giếng, thì một chỗ có hư-không, khắp cả trong thế-gian đều đào giếng,
thì khắp cả thế-gian đều có hư-không; tùy theo nghiệp của chúng-sanh mà hiện ra,
không có phương hướng xứ-sở gì. Người trong thế-gian không biết, khởi tâm phân-biệt
so-đo, chấp là nhơn-duyên sanh, hoặc tự-nhiên có v.v… đều không đúng cả.
- A-Nan, ông nên biết: hiện tiền tánh của năm đại: đất, nước, gió,
lửa và hư-không vốn viên-dung khắp giáp, không lay-động, đều là chơn-tâm cả, không
có sanh và diệt. Chỉ tại các ông mê-muội không biết mà thôi.
LƯỢC GIẢI
Ðất, nước, gió, lửa và hư-không, năm đại này thuộc về phần vật-chất,
đại-diện cho các cảnh vật. Hai đại sau (kiến và thức) là thuộc về phần tinh-thần,
đại-điện cho các thức.
II. CÁC CẢM-GIÁC TỪ CHƠN-TÂM BIẾN-HIỆN.
- A-Nan, cái “thấy” không tự-thể, nhơn đối với cảnh vật và hư-không
mà có, như ông ngày nay ngồi trong rừng Kỳ-đà, sớm mai thấy sáng, chiều lại thấy
tối; đêm không trăng thời thấy tối; có trăng lại thấy sáng. Nhơn có tối và sáng,
nên ông mới thấy có phân-biệt.
- Vậy cái “thấy” này cùng với tối, sáng và hư-không là một thể hay
không phải một thể? đồng hay khác?
- Này A-Nan, khi tối thì không có sáng, khi sáng thì không có tối.
Nếu cái thấy này cùng với tối đồng một thể, thì khi sáng đến, cái thấy phải mất.
Còn cái thấy này cùng với cái sáng đồng một thể, thì khi tối lại, cái thấy phải
diệt. Nếu cái thấy diệt, thời làm sao thấy tối và thấy sáng. Lại nữa, tối và sáng
khác nhau, còn cái thấy lại không sanh-diệt, như thế thời làm sao nói đồng một thể
được.
- Nếu nói cái thấy cùng với tối, sáng và hư-không chẳng phải một thể,
thì rời tối, sáng và hư-không, ông hãy chia riêng cái thấy của ông ra, xem thử hình-tướng
của nó thế nào. Nếu rời tối, sáng và hư-không thì cái thấy của ông như lông rùa,
sừng thỏ; nghĩa là không có. Khi phân-tách ra tối, sáng và hư-không, ba cái đều
khác, thì cái thấy của ông ở chỗ nào?
- Lại nữa, tối sáng trái nhau, thế nào nói đồng được? Rời tối, sáng
và hư-không ra, không có cái “thấy”, thì làm sao nói khác được? Không thể chia ranh
đây là hư-không, kia là cái “thấy” được, thời làm sao lại nói “không đồng”? Tối,
sáng chẳng đồng, còn cái “thấy” không biến đổi, thì sao lại nói “không khác”?
- Ông nên chín-chắn suy-xét: cái sáng là từ nơi mặt nhựt, cái tối thuộc
ban đêm, chỗ trống thuộc hư-không, nơi bít là thuộc về đất; cái “thấy” có biết còn
hư-không không biết, không phải hòa không phải hiệp. Vậy cái “thấy” từ nơi đ6u mà
sanh, không lẽ tự-nhiên có?
- Các ông không biết: trong
chơn-tâm, cái tánh của “thấy” là tâm, (giác-minh) tâm là tánh của thấy; vốn sẵn
thanh-tịnh khắp cả pháp-giới, tùy tâm của chúng-sanh phân-biệt như thế nào, thì
hiện ra theo sự hiểu-biết của chúng-sanh như thế ấy. Như một con mắt là có một cái
thấy, nếu nhiều con mắt, thì có nhiều cái thấy. Cho đến tai nghe, mũi ngửi, miệng
nếm, thân xúc, ý biết, sáu cảm-giác cũng vậy, đều khắp cả pháp-giới, tùy theo nghiệp
của chúng-sanh mà hiện ra, không có phương-hướng xứ-sở gì.
LƯỢC GIẢI
Như điện, vào đèn thì đèn cháy, vào quạt quạt lại xoay v.v… điện không
có phương-hướng xứ-sở gì, chỉ tùy duyên phát-hiện. Còn tâm cũng thế, tâm vẫn là
một, nếu đến mắt thì thấy, còn đến tai thì nghe v.v… tùy duyên phát-hiện.
- Thấy, nghe, hay, biết …, sáu cảm-giác kể là một, cùng với hư-không
và bốn đại, thành ra sáu đại, tánh nó viên-dung vốn không lay-động, đồng một thể
chơn-tâm, không sanh không diệt, thế-gian vì mê-lầm không biết, sanh tâm phân-biệt,
chấp cho nhân-duyên sanh, hoặc tự-nhiên có, đều không đúng cả.
III. THỨC (PHÂN-BIỆT) TỪ CHƠN-TÂM BIẾN-HIỆN.
- Này A-Nan, cái “thức” (phân-biệt) không có căn-nguyên, nhơn sáu căn
và sáu trần mà vọng-hiện. Ông nay dùng mắt xem khắp trong hội này, thì con mắt của
ông chẳng khác nào như cái kiếng chiếu cảnh, không có phân-biệt gì riêng khác. Rồi
cái “thức” của ông mới khởi lên, tuần-tự phân-biệt: Ðây là ông Văn-Thù, kia là ông
Phú-Lâu-Na, đó là ông Mục-Kiền-Liên, nọ là ông Tu-Bồ-Ðề v.v… Vậy cái thức hiểu biết
phân-biệt này, từ cái thấy sanh, hay từ nơi cảnh-vật sanh? từ hư-không ra, hay không
do đâu tự xuất-hiện?
- A-nan, nếu nói “cái thức của ông từ nơi cái thấy sanh”, mà không
có tối, sáng, cảnh-vật và hư-không bốn món, thì cái “thấy” của ông không có. Cái
thấy còn không có, thời cái thức phân-biệt kia làm sao từ nơi cái thấy mà sanh được.
- Còn nói “thức phân-biệt này từ cảnh-vật sanh, chớ không phải từ nơi
cái thấy”. Nếu không có cái thấy để thấy tối, sáng, cảnh-vật và hư-không các tướng,
thời cái “thức” của ông từ nơi đâu sanh được.
- Còn nói “thức từ hư-không sanh, không phải từ nơi cảnh-vật và cái
thấy”. Nếu không có cái “thấy” thời không thấy được sáng, tối, cảnh-vật và hư-không.
Còn nếu không có các cảnh-vật thì thấy, nghe, hay, biết không từ nơi đâu mà có.
- Nếu nói “thức không phải từ cảnh-vật và cái thấy sanh”, như thế thì
nó đồng với cái không. Còn nói “nó có mà không phải đồng cảnh-vật”, thì dầu cho
cái thức của ông có phát-sanh ra nữa, cũng không thể phân-biệt cái gì.
- Nếu nói “thức không nhân đâu, thoạt nhiên xuất-hiện”, thì sao khi
ban ngày, ông không thể phân-biệt được mặt trăng?
- Ông nên chín-chắn suy-xét: cái thấy thì nó gá nơi con mắt của ông,
còn các hình-tướng là ở nơi cảnh-vật. Những gì có hình-tướng thời có, còn không
hình-tướng là không. Cái “thức” thì động (có phân-biệt), còn cái “thấy” lại yên-lặng
(không phân-biệt), không phải hòa không phải hiệp. Vậy thì cái thức phân-biệt của
ông từ đâu sanh ra? Không lẽ không do đâu mà tự có?
- Các ông không biết trong chơn-tâm, tánh của thức tâm, tâm mới thật
là thức (chơn-thức), nó nhiệm-mầu yên-lặng, sáng-suốt, khắp giáp cả pháp-giới, hàm
chứa và sanh ra mười phương hư-không thế-giới, chỉ tùy theo nghiệp của chúng-sanh
mà hiện ra, không có phương-hướng xứ-sở. Thế-gian không biết, khởi thức-tâm phân-biệt
chấp trước, cho là nhân-duyên hoặc tự-nhiên có v.v… đều không đúng cả.
- Các ông nên biết: dất, nước, gió, lửa và hư-không, cái thấy và thức-tâm
gọi chung là bảy đại, tánh của nó đều là chơn-tâm viên-mãn khắp giáp tất cả, vốn
không sanh-diệt. Các ông vì mê-muội nên không biết.
LƯỢC GIẢI
Chúng ta nên phân-biệt rõ-ràng: “thức” và cái “thấy”.
Cái “thấy” là thuộc các cảm-giác, về phần trực-giác. Nó cũng như cái
kiếng chiếu cảnh, không có phân-biệt tính toán. Còn “thức” thì có phân-biệt tốt,
xấu, hay, dở v.v… So theo Duy-thức-tông, để nói cho dễ hiểu: “thức” là chỉ cho thức
thứ Sáu, còn cái “thấy” là thuộc về năm thức trước.
Tóm lại, nói đất, nước, gió, lửa, hư-không là thuộc về vật-chất, còn
thấy và thức là thuộc về phần tinh-thần. Trong vũ-trụ tuy có thiên hình vạn trạng,
nhưng tóm lại thì không ngoài vật-chất và tinh-thần.
Ðoạn này là nói cả vật-chất lẫn tinh-thần đều từ nơi chơn-tâm, tùy
theo nghiệp của chúng-sanh mà hiện ra như thế này, hoặc như thế kia, ngàn sai muôn
khác. Như người chiêm-bao thấy hiện ra các cảnh-vật (đất, nước v.v…)
Về bản-thể (tâm) của bảy đại thì chơn, không có sanh diệt. Còn về
hiện-tượng (các hình tướng) thì vọng. Vì chúng-sanh mê-muội không biết, chấp thế
này hoặc thế kia, (như người đương chiêm-bao chấp các cảnh chiêm-bao là thật). Một
phen ngộ được chơn-tâm rồi, thì bảy đại này đều trở về thể-tánh chơn-tâm (như người
thức giấc, thì cảnh chiêm-bao liền hết; lúc bấy giờ mới biết các cảnh-vật trong
chiêm-bao đó, đều do tâm chiêm-bao hiện ra).
IV. A-NAN NGỘ ÐƯỢC CHƠN-TÂM, ÐỨNG DẬY
PHÁT-NGUYỆN RỘNG LỚN.
Khi ấy A-Nan và đại-chúng nhờ Phật chỉ dạy rất cặn-kẽ, nên mỗi người
đều ngộ được chơn-tâm của mình rộng lớn khắp cả mười phương hư-không. Lúc bấy giờ
ông lại thấy cả mười phương thế-giới rất nhỏ-hẹp và rõ-ràng cũng như một lá cây
cầm ở trong tay. Tất cả các cảnh-vật sum-la vạn-tượng trong thế-gian này, đều ở
trong chơn-tâm; chơn-tâm bao trùm khắp giáp cả mười phương thế-giới. Khi ấy xem
trở lại cái thân do cha mẹ sanh đây, thật nhỏ-nhen làm sao! Như một hạt bụi nhỏ
ở trong mười phương hư-không, dù còn dù mất cũng không thấm vào đâu. Và cũng như
một hòn bọt nhỏ, nổi trong bể cả rộng khơi, dầu sanh dầu diệt cũng không nhằm gì.
Vì ông A-Nan hiểu ngộ được chơn-tâm của mình thường còn không diệt
và rộng lớn như vậy, nên đứng trước Phật chắp tay kính lạy, và xứng theo chơn-tâm
rộng lớn, mà nói bài kệ phát-nguyện như vầy:
Nguyên văn chữ Hán
Diệu-trạm, Tổng-trì, Bất-động tôn,
Thủ-Lăng-Nghiêm vương, thế hy-hữu,
Tiêu ngã ức kiếp điên-đảo tưởng,
Bất lịch tăng-ky hoạch pháp-thân.
Nguyện kim đắc quả thành bảo-vương,
Hoàn độ như thị hằng sa chúng,
Tương thử thâm tâm phụng trần-sát,
Thị tắc danh vi báo Phật ân.
Phục thỉnh Thế-Tôn vị chứng-minh:
Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập,
Như nhất chúng-sanh vị thành Phật,
Chung bất ư thử thủ Nê-hòa.
Ðại-hùng, đại-lực, đại từ-bi,
Hi cánh thẩm trừ vi-tế hoặc,
Linh ngã tảo đang vô thượng giác,
Ư thập phương giới tọa đạo tràng
Thuấn-nhã-đa tánh khả tiêu vong,
Thước-ca-ra tâm vô động chuyển.
Kính lạy Pháp-thân, Báo-thân, Hóa-thân Phật, và kinh Thủ-Lăng-Nghiêm
vương là ngôi Pháp-bảo rất hy-hữu trên đời. Tiêu trừ cho con các vọng-tưởng điên-đảo
từ ức-kiếp, khiến con chẳng cần trải qua vô-số kiếp tu-hành mà vẫn đặng pháp-thân
Phật.
Hôm nay con nguyện mau đặng thành quả Phật, để trở lại độ chúng-sanh
nhiều như hằng-sa. Con nguyện đem thân-tâm này, phụng-sự các đức Phật nhiều như
vi-trần. Thế mới gọi là đền ơn chư Phật.
Cúi xin đức Thế-Tôn chứng-minh cho lời thệ-nguyện của con: Trong đời
ngũ-trược tội ác này, con thề vào trước để cứu khổ chúng-sanh. Nếu còn một chúng-sanh
nào chưa được thành Phật, thì con thệ chẳng lãnh quả vui Niết-bàn.
Phật là đấng Ðại-hùng, Ðại-lực và Ðại-từ-bi. Cúi xin Ngài tiêu trừ
các điều mê-lầm vi-tế cho con, khiến cho con sớm đặng thành quả Phật, để hóa-độ
chúng-sanh khắp cả mười phương thế-giới. Giả-sử hư-không kia có thể tiêu-diệt hết,
chớ chí-nguyện của con đây chẳng hề lay động.
LƯỢC GIẢI
Ngài A-Nan vì ngộ được chơn-tâm của mình rộng lớn bao-hàm cả vũ-trụ;
vô biên thế-giới vô tận chúng-sanh đều ở trong chơn-tâm cả. Lúc bấy giờ, Ngài thấy
mười phương thế-giới rất rõ-ràng và nhỏ hẹp cũng như cái lá cây cầm ở trong tay,
còn thân này nhỏ-nhen như hạt bụi bay trong hư-không, dầu còn dầu mất cũng chẳng
thấm vào đâu.
Bởi Ngài ngộ được chơn-tâm rộng lớn, cùng với chúng-sanh đồng một
thể không hai, cho nên Ngài mới xứng theo chơn-tâm rộng lớn, khởi ra đồng thể đại-bi,
phát lời thệ-nguyện rộng sâu như thế.
Xem như câu:
Trong đời ngũ-trược tội ác này, con thề vào trước để cứu khổ chúng-sanh.
Nếu còn một chúng-sanh nào chưa thành Phật, thì con thề chẳng lãnh quả Niết-bàn…
Và câu: Giả-sử hư-không kia có
thể tiêu hết, mà chí-nguyện của con đây chẳng hề lay-động.
Trong kinh nói: “Thế-giới vô-biên, chúng-sanh vô tận”, biết bao giờ
độ cho hết tất cả chúng-sanh, mà Ngài lại thệ-nguyện xung-phong vào đời ngũ-trược
tội ác trước hết, để cứu-độ chúng-sanh. Nếu còn một chúng-sanh nào chưa thành Phật,
thì Ngài chẳng chịu an-vui ở cảnh Niết-bàn.
Thật là lòng từ-bi rộng lớn vô cùng; chí-nguyện cao-thượng hy-sinh
độ đời của Ngài như thế, đáng cho chúng ta trọn đời bái-phục.
Trông lên Ngài rồi ngó lại ta… thấy rõ tâm chí và hành-vi của mình,
thật cũng quá ư hẹp-hòi và thấp-thỏi!