Mười Tông Phái Ở Trung Hoa (Tiếp Theo): Pháp-Tướng Tông, Mật Tông, Thiên-Thai Tông
DUY THỨC TÔN
hay là PHÁP TƯỚNG TÔN
I.
Duyên KhỞi LẬp Tôn
Tất cả chúng sanh đều vô thỉ đến nay, vì chấp có thật
ngã, thật-pháp mà tạo ra các nghiệp, rồi bị các nghiệp dắt dẫn nên xoay vần mãi
theo bánh xe sanh tử luân-hồi.
Nếu con người hiểu rõ một cách chắc chắn rằng: tất
cả các pháp trong vũ-trụ, nhân và ngã đều không thật có, chỉ do thức biến hiện,
như cảnh trong chiêm bao, mà không còn gây phiền não, tạo nghiệp-chướng nữa, thì
tất không còn bị ràng buộc, trong bánh xe sanh tử luân hồi.
Ðể phá trừ hai món chấp thật-ngã và thật-pháp, Ðức-Phật
có rất nhiều phương-pháp, có rất nhiều pháp thiền, mà Duy-Thức-Tôn hay Pháp-tướng-tôn
là một pháp tu rất cần thiết, rất hiệu-nghiệm để đi đến giải-thoát.
II.
ÐỊnh Nghĩa
Tôn này thuộc về Ðại-thừa, phân-tách vũ-trụ, vạn hữu
đều do thức biến hiện.
Duy-thức tôn, hay Pháp-tướng tôn, như danh từ đã chỉ-định,
không nói về tâm tánh chơn như, mà chỉ nói về tướng của thức, tức cũng là tướng
của pháp. Biết rằng từ chơn vọng hòa hiệp biến thành hình tướng thức A-Lại-Da, rồi
từ thức A-Lại-Da sanh ra các tướng tâm-pháp v.v... Tôn này quán-sát hành tướng
của các pháp ấy, nên gọi là ' Pháp-tướng tôn ' .
Ðứng về phương diện nguyên-nhân mà nghiên-cứu, tôn
này chủ-trương rằng vũ-trụ vạn-hữu, hay là tát cả các pháp đều do duy-thức biến-hiện,
ngoài thức không còn một yếu tố nào khác nữa nên gọi là ' Duy thức tôn ' .
Vậy ' Pháp-tướng tôn ' hay ' Duy thức tôn ' cũng
đều để gọi pháp-môn mà tôn-chỉ chỉ là nghiên cứu, quan-sát hành-tướng và nguyên
nhân sanh-khởi của vạn pháp. Nguyên nhân sanh-khởi ấy là ' Thức '.
III.
Căn CỨ các kinh sách Sau Ðây LẬp Ra Duy ThỨc Tôn
Như tất cả các tôn phái khác, Duy-thức tôn cũng căn-cứ
vào căn luận của Phật mà được thành lập ra. Ðó là 6 bộ kinh và 11 bộ luận sau đây:
Sáu bộ kinh là:
1.- Kinh Giải-thâm-mật.
2.- Kinh Hoa-nghiêm.
3.- Kinh Như-lai xuất hiện công-đức trang-nghiêm.
4.- Kinh A-tỳ-đạt-ma.
5.- Kinh Lăng-nghiêm.
6.- Kinh Hậu-nghiêm (hay Mật-nghiêm).
Mười một bộ luận là:
1.-Luận Du-già Sư-địa.
2.- Luận Hiển-dương Thánh-giáo.
3.- Luận Ðại-thừa Trang-nghiêm.
4.- Luận Nhiếp Ðại-thừa.
6.- Luận Thập-địa-kinh.
7.- Luận Phân-biệt Du-già.
8.- Luận Quán Sở-duyên-duyên.
9.- Luận Duy-thức Nhị-thập-tụng.
10.- Luận Biện-trung-biên.
11.- Luận Tạp-luận.
Vị sáng lập ra Duy-thức chính là Bồ Tát Di-lặc. Ðức
Di-Lặc sau khi tu chứng được Duy-thức, đã ứng theo lời thỉnh-cầu của Ngài Vô-trước,
nói Luận Du-già Sư-địa.
Hai vị có công lớn trong việc phát-triển tôn này ở
Ấn Ðộ là hai anh em nhà Vô-trước và Ngài Thế-thân. Ngài Vô-trước dựa theo bộ '
Du-già Sư-địa ' làm ra bộ luận 'Hiển-dương Thánh-giáo', và ' Nhiếp Ðại-thừa
'. Ngài Thế-thân lại có công đức lớn lao hơn nữa, tóm tắt lại nghĩa lý Duy-thức,
làm ra bộ luận 'Duy-thức tam thập tụng '. Về sau, có mười vị Ðại Luận-sư, sớ giải
bộ Duy-thức tam-thập tụng, làm thành mười bộ luận chính về Duy-thức .
Ðến đời Ðường, Ngài Huyền-trang từ Trung Hoa sang Ấn
Ðộ thỉnh kinh và tham-cứu về Phật Giáo. Môn học sở trường của Ngài là Duy-thức.
Sau khi trở về Trung Hoa, Ngài lượm-lặt tinh-hoa của 10 bộ đại luận nói trên, dịch
thành Hán-văn, dưới nhan đề là: ' Thành Duy-thức Luận ', gồm cả thảy 10 quyển.
Ngài Khuy-cơ là đệ-tử lớn của Ngài Huyền-trang sớ-giải thêm rõ nghĩa-lý bộ ' Thành
Duy-thức Luận ' làm ra thành 60 quyển, dưới nhan đề là ' Thành Duy-thức thuật-ký
'.
Tóm lại, ở Ấn Ðộ, vị có công lớn nhất trong sự phát
huy Duy-thức tôn là Ngài Thế-thân. Còn ở Trung Hoa, vị có công lớn nhất trong việc
truyền bá Duy-thức tôn là Ngài Huyền-trang.
Về phương diện sách vở dạy về Duy-thức, từ xưa đến
nay được các học giả xem là chánh-tôn Duy-thức, thì có ba bộ sau đây:
1.- Ðại-thừa Bá pháp minh môn luận (tác giả là Ngài Thế-thân).
Nội dung bộ luận này giải-thích các danh từ chuyên-môn của Duy-thức, nói rõ 100
pháp và hai món vô-ngã. Người học Duy-thức nếu không học bộ luận này trước, thì
không dễ gì hiểu được Duy-thức (bộ luận này đã được dịch ra tiếng Việt và chúng
tôi lấy nhan đề là: Duy-thức nhập môn).
2.- Duy-thức tam thập tụng (cũng do Ngài Thế-Thân tạo ra). Trong bộ luận này
Ngài Thế-Thân dùng 30 bài tụng để giải thích về nghĩa lý chánh của Duy-thức, luận
này chia làm bốn phần:
a) Phần thứ nhất nói về ba chức năng-biến:
- Thức năng-biến thứ nhất là thức A-lai-da (thức tứ
tám).
- Thức năng-biến thứ hai là thức Mạt-na (thức thứ bảy).
- Thức năng-biến thứ ba là sáu thức năng trước.
b) Phần thứ hai nói về các tâm-sở:
- Biến-hành (5 món).
- Biệt-cảnh (5 món).
- Thiện (11 món).
- Căn-bổn phiền-não (6 món).
- Tùy phiền-não (20 món).
- Bất-định (4 món).
c) Phần thứ ba giải-đáp các nghi vấn:
- Làm sao biết được phận-vi sanh-khởi của các thức?
- Nếu không có ngoại cảnh, thì sao có sanh tử và các
sự phân biệt?
- Nếu không có ngoại cảnh, thì sao có chúng hữu-tình
sanh-tử?
- Nếu chỉ thức, tạo sao Phật lại nói có ba tánh?
- Nếu có ba tánh, tại sao Phật nói ba món vô-tánh?
d) Phần thứ tư nói về đệ tu Duy-thức:
Từ khi phát tâm tu Duy-thức cho đến khi chứng được
Duy-thức tánh thành Phật, hành-giả phải trải qua năm địa vị, thứ lớp như sau đây:
- Vị Tư-lương (như lương thực cửa người đi đường).
- Vị gia hạnh (gia công tấn hàng).
- Vị thông-đạt (thấu suốt đường lối).
- Vị tu-tập (tu-hành tập-luyện).
- Vị cứu cánh (đến cùng tột địa vị tu chứng).
3.- Bát-thức qui-cũ tụng (tác giả là Ngài Huyền-trang). Nội dung của quyển này, Ngài Huyền-trang
dùng 12 bài tụng để toát yếu lại nghĩa-lý Duy-thức, gồm có bốn phần:
a) Phần thứ nhất nói về năm thức đầu
b) Phần thứ hai nói về thức thứ sáu .
c) Phần thứ ba nói về thức thứ bảy
d) Phần thứ tư nói về thức thứ tám.
Mỗi một phần có ba bài tụng, hai bài tụng đầu nói hành-tướng
các thức, khi hành-giả còn ở địa vị phàm-phu; bài tụng thứ ba nói hành-tướng các
thức, khi lên quả-vị Thánh.
Tóm lại, ba bộ luận trên này, người muốn học Duy-thức,
không thể bỏ qua được.
IV.
ChỦ Trương CỦa Duy ThỨc Tôn
Chủ-trương của Duy-thức tôn là phá trừ vọng chấp ngã,
pháp (biến kế sở chấp), bằng cách chỉ cho chúng sanh thấy tất cả các pháp đều nương
nơi thức hiện ra (y-tha khởi), và mục dích cuối cùng là đưa chúng sanh trở về với
tánh chân thật (viên-thành thật). Thế-giới hiện-tượng này này, vì mê-mờ, chúng ta
tưởng là chắc thật, nhưng theo chủ trương của Duy-thức học, thì vũ-trụ vạn-hữu đều
là Duy-thức biến-hiện. Cũng như sơn hà, đại địa trong cảnh chiêm bao, không có cảnh
vật ấy.
Vậy, nếu chỉ cho chúng sanh thấy được một cách rõ ràng,
vũ-trụ vạn-hữu do thức biến-hiện ra như thế nào, thì chắc chắn chúng sanh sẽ không
còn chấp thật ngã, thật pháp nữa. Cũng như khi biết cảnh vật trong chiêm bao là
do tâm chiêm-bao sanh ra thì không còn mê muội nơi cảnh chiêm-bao nữa. Mà không
còn chiêm-bao tức đã thức-tỉnh. Cũng thế, khi không còn chấp thật ngã, thật pháp
nữa, tất sẽ thấy được cảnh chân-thật của vũ-trụ vạn-hữu, (tánh viên thành-thật).
Ðó là chủ trương của Duy-thức tôn.
Nói một cách vắn tắt, chủ trương của Duy-thức tôn là
quy vũ-trụ vạn-hữu trở về Duy-thức tướng, rồi từ Duy-thức tướng trở về Duy-thức
tánh (tâm chơn-như hay tánh viên-giác).
V.
Thành PhẦn CỦa HiỆn TưỢng GiỚi
(vũ-trụ vạn-hữu gồm cả tâm và pháp)
Phân LoẠi Theo Duy ThỨc Tôn
Hiện tượng giới, tức là vạn sự vạn vật trong vũ-trụ
(gồm cả tâm lẫn vật), tuy nhiên không thể kể xiết được, nhưng dưới nhãn-quan của
nhà Duy-thức học, có thể phân ra thành năm loại; năm loại này lại chia thành 100
thành phần hay 100 pháp.
Năm loại lớn ấy là:
1.- Tâm-vương tức là ' tướng ' của thức, thuộc về tâm-giới.
2.- Tâm-sở tức là ' dụng ' của thức, cũng thuộc về tâm-giới.
3.- Sắc-pháp tức là 'ảnh-tượng' của thức, thuộc về sắc-giới.
4.- Bất-tương-ứng-hành tức là 'phận-vị sai khác' của thức, không phải thuộc
hẳn về tâm mà cũng không thuộc về sắc-giới, nhưng gồm cả hai phần mà thành.
5.-Vô-vi tức là 'tánh' của thức, cũng gọi là 'chơn như '
.
Bốn loại trên: tâm-vương, tâm-sở, sắc-pháp, bất tương
ưng hành đều thuộc về " hữu vi", tức là " tướng , có sanh diệt.
Loại thứ năm, là pháp "vô vi", không sanh diệt, không
tạo tác, tức là " tánh " của các pháp, hay chơn như.
Năm loại lớn trên đây, mỗi loại lại chia làm nhiều
thành phần, có những tác dụng hành tướng riêng biệt, mà chúng ta cần nghiên cứu
kỷ sau đây:
1.-Tâm vương
Tâm vương gồm có tấm món, mỗi món có những đặc tánh,
khả năng và nhiệm vụ riêng biệt, như mỗi ông vua làm chủ mỗi nước, nên gọ là tâm
vương. Tám phần của tâm vương là:
a) Nhãn thức
b) Nhĩ thức
c) Tỹ thức
d) Thiệt thức
đ) Thân thức
e) Ý thức
h) A-lại-da thức
Chúng ta có năm giác quan, mỗi giác quan có một sở năng, một cái biết
riêng: khi ta nhìn một cái hoa, biết cái hoa ấy màu vàng hay đỏ v.v... cái biết
ấy thuộc về con mắt, nên gọi là nhãn thức. Khi chúng ta nhge đàn, biết tiếng đàn
ấy cao hay thấp, to hay nhỏ v.v... cái biết ấy thuộc về tai, nên gọ là nhĩ thức.
Khi ta ngửi một mùi gì, biết được mùi ấy thơm hay hôi, cái biết ấy thuộc về mũi,
nên gội là tỷ thức. Khi chúng ta nếm một món ăn gì, biết được món ăn ấy mặn hay
lạt, chua hay ngọt, cái biết ấy thuộc về lưỡi, nên gọi là thiệt thức. Khi chúng
ta đụng vào một vật gì, biết vật ấy cứng hay mềm, nóng hay lạnh, cái biết ấy thuộc
về thân thể, nên gọi là thân thức.
Năm cái biết trên này: Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiềtva Thân
thức, thuộc về năm giac quan bên ngoài nên chúng ta dễ nhận.
Ba cái biết sau này: Ý thức, Mạt-na-thức, A-lại-da-thức,
thuộc về nội tâm, và theo thứ lớp, ẩn sâu vào trong, tế nhị hơn, nên khó nhận khó
biết. Tuy thế, đối với nhà Duy thức học, người ta cũng có thể nhận biết được rành
rẽ hành tướng phân biệt được phạm vi hoạt động, sở trường , sở đoản và công
năng của mỗi thứ.
Trước tiên, chúng ta nói đến thức thứ sáu hay "Ý thức".
Ý thức có hai phạm vi hoạt động:
- Khi nào ý thức hiệp với năm thức trước, tiếp xúc
với cảnh, thì gọi là " Ngũ câu Ý thức", hay là " Minh liễu Ý thức". Trong lúc mắt
thấy sắc, tai nghe tiếng v.v... mà không có Ý-thức phụ vào (để ý) thì mặc dù mắt
vẫn thấy, tai vẫn nghe, nhưng thấy nghe không được rõ ràng. Sách nho chép: "Tâm
bất tại diên, thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn" ( nếu không chú ý, thì dù xem
cũng chẳng thấy, lắng cũng chẳng nghe). Trái lại, khi có Ý-thức phụ vào, thấy nghe
v.v... đều minh bạch.
- Khi nào Ý-thức làm việc một mình, không cùng hợp
tác với năm thức trước, thì gọi là "Ðơn độc Ý-thứ" hay "Ðộc đầu Ý-thức". Như
trong lúc năm thức trước không tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị và xúc, mà trong
tâm trí vẫn lưu lại bóng dáng (pháp trần) của năm trần. Khi chúng ta nhớ tưởng lại,
thì cảnh ngũ trần in như hiện rõ ràng ở trước, đó là công dụng của " Ðộc đầu Ý-thức".
Thức thứ sáu này, khi tính toán, suy nghĩ việc gì, thiện hay ác, hay hay dở, cũng
đều lanh lợi đảm đang hơn các thức khác, nên trong duy thức nói: "Công vi thủ, tội
vi khôi" (Có công thì nó đứng đầu, mà có tội nó cũng đứng đầu).
Thức thứ sáu, tuy sở trường là khôn ngoan lanh lợi,
nhưng lại có sở đoản là bất thường, không phải lúc nào cũng hiện diện, mà lại có
khi gián đoạn, ẩn phục, như trong lúc bị hụp thuốc mê, chết giả, ngủ say, hay nhập
vô tưởng định v.v... Qua những giai đoạn ấy, Ý-thức lại hiện trở lại.
Vậy trong lúc ý thức không hiện, nó núp ở đâu?
Theo Duy thức, khi đó, thức thứ sáu trở về gốc của
nó là Ý-căn, tức là thức thứ bảy hay thức Mạt-na. Theo tâm lý học thì cũng có thể
gọi là tiềm thức.
Thức thứ bảy này có hai công năng:
- Chấp ngã;
- Làm căn bản choÝ thức thứ sáu.
Nó có công-năng là đem các pháp hiện hành bên ngoài
'truyền' vào tạng thức và đem các pháp chủng tử bên trong 'tống' ra ngoài nên
nó có tên là 'truyền tống thức'. Sự chấp ngã của thức này và của thức thứ Sáu,
có thô và tế khác nhau. Khi nào để ý bảo thủ bản ngã, như khi ra trận bắn nhau với
địch quân, khi đánh lộn, hay tìm một kế gì để sanh nhai, thì sự chấp ngã ấy thuộc
về thức thứ Sáu. Thực ra không có lúc nào chúng ta không chấp ngã, sự chấp ngã vẫn
thường trực trong chúng ta. Nhưng nó âm thầm, sâu kín, tiềm trực, nên chúng
ta không nhận thấy được. Ðến lúc bất ngờ, đột nhiên xảy ra một sự việc gì đó có
nguy hại đến tánh mạng ta, như bất thần có người rình rập, hay đi ra đường bị nhành
cây gãy sắp rơi xuống đầu... trong những lúc ấy, tuy thức thứ Sáu không kịp để ý
can thiệp, đối phó mà ta vẫn tự tránh né, bảo thủ cái Ngã. Ðó là sự chấp ngã của
thức thứ bảy.
Ngoài bảy thức nói trên, còn có một thức thứ tám tế
nhị, sâu kín mênh mông hơn nữa, đó là thức A-lại-da, Tàu dịch là Tàng-thức, nghĩa
là thức 'Tích chứa'.
Từ nhỏ đến lớn chúng ta đọc rất nhiều sách, tiếp xúc
với nhiều sự vật, rồi thời gian cứ tuần tự trôi qua, chúng ta tưởng đã quên mất
rồi. Thế mà không! Mỗi khi nghĩ đến thì danh từ, hình ảnh của những vật xưa củ hiện
ra rõ ràng như một cuốn phim quay lại ở trước mắt. Những danh từ hình ảnh ấy, vì
sao mấy chục năm qua mà vẫn còn lại? Tất nhiên phải có một cái kho vô tận
chứa lại, nên mới không mất vậy! Kho vô tận này trong Duy-thức tôn gọi là Tàng-thức
(thức chứa).
Ðể cho dễ nhớ hành tướng và công năng của tám thức
nói trên, cổ nhân có làm bài kệ rằng:
Nguyên văn:
Bát cá đệ huynh, nhứt cá si
Ðộc hữu nhứt cá, tối linh tinh
Ngũ cá môn tiền ố mãi mại
Nhất cá gia trung tác chủ y.
Dịch nghĩa:
Anh em tám chú một người si (thức thứ bảy)
Một mình ý-thức rất tinh ranh (thức thứ sáu)
Năm chàng ngoài cửa lo buôn bán (năm thức trước)
Làm chủ trong nhà, thức Lại-da (thức thứ tám).
2.- Tâm sở
Tâm sở là tánh sở hữu, phụ thuộc của Tâm vương, cũng
như ông quan trong triều, phụ thuộc dưới quyền sai sử của ông vua, hay những nhân
viên phụ thuộc dưới quyền sử dụng của vị Bộ trưởng. Tâm sở có tất cả 51 pháp, chia
làm sáu loại như sau:
- Biến hành Tâm sở: Biến là phổ biến, hành là lưu hành; Biến hành Tâm
sở nghĩa là những tâm sở có công năng phổ cập lưu chuyển khắp cả tám thức (tâm vương),
với thức nào nó cũng tương ưng được cả. Biến hành Tâm sở gồm có 5 pháp là: Xúc,
Tác ý, Thọ,Tưởng và Tư.
- Biệt cảnh Tâm sở: Biệt là riêng biệt, Biệt cảnh Tâm sở là những tâm
sở riêng mỗi cảnh khác nhau, như dục Tâm sở duyên riêng với cảnh mà mình ưa muốn;
Huệ tâm sở riêng với cánh mà mình quan sát... chứ không phải như Biến hành tâm sở.
Biệt cảnh Tâm sở gồm có 5 pháp là : Dục, Thắng giải, Niệm, Ðịnh và Huệ.
- Thiện Tâm sở: Thiện Tâm sở là tâm sở lành và có công năng phát sanh
những điều lành mà thôi. Thiện tâm sở gồm có 11 pháp là: Tín, Tàm, Quý, Vô tham,
Vô sanh, Vô si, Tinh tấn, Khinh an, Bất phóng dật, Hành xả và Bất hại.
- Căn-bản phiền-não tâm sở: những tâm-sở này gây phiền
não, rối loạn cho chúng sanh. Ðây là những phiền-não làm cội gốc cho các phiền-não
phát sinh, nên gọi là căn bản phiền-não. Căn bản phiền-não bao gồm có sáu pháp là:
Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác-kiến.
- Tùy phiền-não tâm-sở: Những tâm-sở này nương tựa, phát sanh từ các phiền-não
căn bản tâm sở nói trên, nên gọi là tùy phiền-não. Những tâm sở căn bản phiền-não
trên là gốc mà những tâm sở phiền-não này là ngọn. Tùy phiền-não tâm sở gồm có 50
pháp là: Phẫn, Hậu, Phú, Não, Tật, Xan, Cuốn, Siển, Hại, Kiêu, Vô-tàm, Vô-quí, Trạo-cử,
Hồn-trầm, Bất-tín, Giải-đãi, Phóng-dật, Thất-niệm, Tán-loại, Bất-chánh-trí.
- Bất định tâm sở: Bất-định nghĩa là không nhất định; bất định tâm sở
là những tâm sở không nhất định thiện hay ác; không đứng hẳn về một phía thiện hay
ác; như các pháp nói trên. Bất định tâm sở gồm có bốn pháp là: Hối, Miên,Trầm, Tư.
3.- Sắc pháp
Sắc-pháp tức là những pháp có thể hư nát và có tánh
cách chướng ngại. Sắc-pháp là sự phối hợp của năm căn và sáu trần, cộng tất cả là
11 pháp:
Năm căn là: Nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân.
Sáu trần là: Sắc, thinh, hương, vị, xúc, và pháp trần.
4.- Bất tương-ưng hành pháp
Các pháp này không thuộc về sắc mà cũng không thuộc
về tâm; nhưng chúng nó không thể rời sắc và tâm mà có được. Thí dụ như 'đắc' (được)
là một 'bất tương-ưng pháp'. 'Ðược' không thể là sắc mà cũng không thể nào là
tâm. Nhưng khi nói 'được', tức là hàm cái nghĩa 'được' một cái gì, nhưng 'được'
một đồng bạc chẳng hạn, và phải có một yếu tố thứ hai là 'ai' được. Ðồng bạc thuộc
về sắc, 'ai' thuộc về tâm. Còn 'được' không phải lá sắc và tâm mới có. Ðó là
một thí-dụ để chúng ta suy-gẫm về những pháp Bất-tương-ưng khác, như mạn-căn, sanh,
trụ, dị, diệt, phương, thế tốc v.v... gồm tất cả là 14 pháp.
5.- Vô-vi pháp
Như đọan trên đã có nói, pháp vi-vô là pháp không sanh,
không diệt, không tạo-tác, không thay đổi, xa lìa tướng hư vọng, tức là thể-tánh
của các pháp. Các pháp vô-vi, đối với phàm-phu thì khó có thể nói-năng, nghĩ bàn,
so sánh được. Tuy thế, để có một ý-niệm về thể-tánh chơn-như, nhà chủ trương Duy-thức
dựa vào sắc tướng, danh tự để hình dung các pháp vô-vi. Do đó, mà đặt sáu pháp vô-vi
sau đây:
a) Hư không vô-vi:
Muốn nói thể-tánh chơn-như, xa lìa các đều chướng ngại, giống như hư-không.
b) Trạch-diệt vô-vi:
Trạch là lựa chọn, Diệt là diệt trừ, nghĩa là nhờ các sự lựa chọn đứng-đắn của Trí-huệ
vô lậu mà diệt trừ được sự phiền não nhiễn trước, chứng ngộ cứu cánh.
c) Phi-trạch diệt vô-vi:
Trên thì nói nhờ sự lựa chọn, đứng đắn của trí-huệ mà diệt trừ được sự phiền não
nhiễm trước. Nhưng nói thế không có nghĩa rằng pháp-tánh nhờ có sự diệt trừ phiền-não
mới có được. Pháp-tánh vốn đã có sẵn, xưa nay là vốn là thanh-tịnh, không có nhiễm
ô, không có sanh diệt, cho nên gọi là phi-trạch diệt vô-vi. Lại có nghĩa thứ hai
là vì thiếu duyên, nên các phiền-não nhiễm-ô không hiện; vì thế mà pháp vô-vi thanh-tịnh
tự hiện ra, không cần có sự trạch diệt.
d) Bất động diệt vô-vi:
Khi đã xa lìa các phiền não, về cõi tịnh lự thứ ba, thuộc về sắc giới, dứt bỏ những
sự vui buồn, thường tương ưng cùng xả thọ, không còn bị lay động, bởi một sắc tướng
gì nữa, nên gọi là 'Bất động diệt vô-vi '.
e) Tưởng thọ diệt vô-vi:
Khi đã xa lìa được phiền não ở cõi thứ ba thuộc về vô sắc giới, các tâm sở ' tưởng,
thọ' đều tịch diệt, chơn như hiện ra, nên gọi là ' Tưởng thọ diệt vô-vi'.
f) Chơn như vô-vi: Năm pháp vô-vi trên này là hình dung các đức tánh của chơn như; pháp
thứ sáu này là "Chơn như vô-vi", mới chỉ đích danh bản thể chơn như.
Ðể người đọc dễ nhớ 100 pháp vừa kể trên này, cổ nhân
có làm một bài kệ, tóm tắt như sau.
Nguyên văn:
Sắc pháp thập nhất, tâm pháp bát
Ngũ thập nhất cá tâm sở pháp
Nhị thập tứ chủng bất tương ưng
Sáu món vô vị, thành trăm pháp
Dịch nghĩa:
Sắc pháp mười một, tâm pháp tám
Năm mươi mốt món tâm sở pháp
Hai mươi bốn món bất tương ưng
Sáu món vô-vi , thành trăm pháp
VI. PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH
Như chúng ta đã biết vũ trụ vạn hữu tuy vô cùng phức
tạp, nhưng nhà Duy thức học có thể sắp xếp thành 100 loại (bách pháp ). Một trăm
loại này, tuy hình tướng công năng có khác nhau, chung cục lại cũng đều Thức cả.
Vậy phương pháp tu hành của nhà Duy thức học là làm
thế nào để chứng ngộ cái lý nói rên, thể nhập với cái chơn lý ấy. Ðể đạt được mục
đích này nhà Duy thức học dạy phải thực hành 5 pháp quán sau đây, gọi là 'Ngũ trùng
duy thức quán'. Với năm pháp quán này, hành giả đi từ thô đến tế, từ phức
tạp đến tinh thuần, để cuối cùng chỉ còn thấy có thức tánh, tức là tâm chơn như.
1.- Bỏ cái hư giả, lưu lại cái hư thật (khiển hư, tồn thật): Bỏ cái
hư giả tức là cái vọng chấp thật có ngã, có pháp do cái tánh 'biến kế chấp' tạo
ra. Lưu lại cái chân thật, tức là cái tánh 'y-tha-khởi' và 'viên-thành'.
Nói một cách khác cho dễ hiểu, trong pháp quán này, hành giả phải quán ngã và pháp
là không thật ( hư) để phá trừ cái chấp thật có. Hành giả lại quán tánh y-tha, viên-thành
là thật có (thật) để phá trừ chấp không. Trong lối quán duy thức từng thứ nhất này,
'có' và 'không' đối đãi nhau, để bỏ' biến kế chấp' lưu lại 'y tha' và 'viên
thành'.
2.- Bỏ cái lộn lạo, lưu lại cái thuần túy (xả lạm lưu thuần): Cái lộn
lạo nói ở đây là tướng phần (nội cảnh); có thuần túy ở đây là kiến phần. Bỏ cái
lộn lạo, lưu cái thuần túy, tức là bỏ phần 'tướng' bị duyên (sở duyên) mà lưu
lại cái phần 'kiến' là phần năng duyên. Ðây là quán thứ hai về lối duy thức, lấy
tâm (năng) và cảnh (sở) đối đãi với nhau, và mục đích là bỏ cảnh (xả lạm) mà chỉ
giữ lại tâm (lưu thuần). Lối quán thứ nhất là bỏ vọng cảnh ngoài tâm; lối
quán thứ hai này là bỏ cảnh nội tâm là tướng phần của thức.
3.- Ðem cái ngọn trở về gốc (nhiếp mạt quy bổn): Cái ngọn
ở đây tức là muốn nói tướng phần và kiến phần, còn gốc ở đây tức là tự chứng phần.
Kiến phần và kiến phần là 'dụng' đều y theo tự chứng phần mà khởi ra, nên gọi
là ngọn; còn tự chứng phần là 'thể tánh' cho nên gọi là gốc. Lối quán duy thức
thứ ba này là đem 'dụng' và 'thể' đối đãi với nhau, mà mục đích là bỏ cái phần
thuộc tương đối ít quan trọng là dụng (kiến phần), chỉ giữ lại cái phần căn bản
là thể (tự chứng phần).
4.- Giấu cái liệt làm hiển lộ cái thắng (ẩn liệt hiển thắng): Cái
Liệt muốn nói ở đây tức là các tâm sở, cái Thắng tức là các tâm vương. Tâm sở phụ
thuộc vào cái tâm vương nên gọi là liệt, hay kém; tâm vương là phần sai sử chủ động,
nên gọi là thắng, hay hơn. Lối quán duy thức thứ tư này là đem 51 món tâm sở so
sánh với 8 món tâm vương, và mục đích là dẹp bỏ các món tâm sở và làm hiển lộ 8
món tâm vương.
5.- Bỏ thưc tướng về thức tánh (khiển tướng chứng tánh):
Bốn tầng quán Duy thức trên, tuy rốt ráo chỉ còn giử lại các món tâm vương, nhưng
tâm vương cũng có sự tướng và lý tánh. Lối quán thứ năm này là đem sự tướng đối
đãi với lý tánh, mà mục đích cuối cùng là bỏ sự tướng của thức (thức tướng) để trở
về với lý tánh của thức (thức tánh), tức cũng là chứng nhập Pháp tánh hay tâm Chơn
như (quý độc giả muốn hiểu rỏ thêm, xin xem bài duy thức quán đâị cương của Ngài
Thái Hư Pháp sư).
Ngoài năm lớp quán Duy thức của cổ nhơn mà chúng tôi
vừa kể trên, còn có một lối tu nữa rất dễ dàng và thiết thực, hợp với đại chúng
là chúng ta thường quan sát và kiểm điểm nội tâm của mình.
Chúng ta hãy đọc kỹ về hai lọai Phiền não tâm sở và
Thiện tâm sở trong Duy thức, để nhìn rõ mặt mày tướng trạng, công dụng, tánh tình
và danh tự của chúng. Rồi hằng ngày chúng ta kiểm điểm ở nội tâm: Mỗi khi hiện lên
một tâm niệm gì, chúng ta kiểm điểm và quan sát thật kỹ tâm niệm này thiện hay ác
(phiền não). Nếu tâm niệm thiện thì chúng ta nuôi dưỡng cho nó phát-triển thêm,
còn nếu tâm niệm ác thì chúng ta mau mau lo diệt trừ đi. Chúng ta biết sữa đổi tâm
niệm xấu (tu tâm) và nuôi dưỡng tánh tốt (dưỡng tánh) như thế phải thì chúng ta
sẽ thành được Thánh hiền (xem quyển tu tâm và dưỡng tánh).
VII.
Hành GiẢ PhẢi TrẢi Qua Năm ÐỊa VỊ Trong Khi Tu Duy ThỨc
Người tu học pháp môn Duy thức, cũng như kẻ bộ hành,
từ khi nảy sinh ra cái ý định muốn đi cho đến tới đích, phải trải qua năm giai đoạn
hay năm địa vị như sau:
1.- Vị tư lương: Tức là thời gian chuẩn bị như người sắp đi xa, phải
chuẩn bị lương thực trước lúc lên đường.
Trong Duy thức Tam thập tụng:
Nguyên văn:
Nãi chí vị khởi thức
Cầu trụ Duy-thức tánh
Ư nhị thủ tùy miên
Du vị năng phục diệt.
Nghĩa là: Từ khi chưa phát tâm cho đến khi phát
tâm cầu an trụ Duy thức tánh, trong thời gian đó, hai món thủ (ngã chấp, pháp chấp)
hãy còn miên phục, hành giả chưa có thể chinh phục diệt trừ được.
2.- Vị Gia hạnh: Hành giả gia công tấn hạnh, cũng như người định đi
xa, sau khi đã chuẩn bị đủ hành lý cách bước lên đường.
Trong Duy thức tam thập tụng có chép:
Nguyên văn:
Hiện tiền lập thiểu vật
Vị thị Duy-thức tánh
Dĩ hữu sở đắc cố
Phi thật trụ Duy-thức.
Nghĩa là: Nếu hiện tiền còn thấy mình an trụ
Duy thức tánh, dù nhỏ nhiệm bao nhiêu thì cũng chưa phải thật an trụ Duy thứ tánh,
vì còn có chổ sở-đắc vậy.
3.- Vị Thông đạt: Hành giả thông suốt đường lối tu hành, cũng như người
bộ người bộ hành.nghiên cứu kỹ lưỡng con đường mình sắp đi, biết rõ đoạn nào tốt,
đoạn nào xấu, đoạn nào nguy hiểm, đoạn nào không v.v...
Trong Duy thức tam thập tụng có chép:
Nguyên văn:
Vô đắc bất đắc nghị
Thị xuất thế gian trí
Xả nhị thô trọng cố
Tiện chứng đắc chuyển y.
Nghĩa là: cảnh giới "vô đắc"này không thể nghĩ bàn;
đây là trí xuất thế gian vô lậu. Do đã xa lìa được hai món thô trọng (phiền não
chướng và sở tri chướng), hành-giả chứng được hai món chuyển-y (Bồ-Ðề và Niết bàn).
5.-Vị cứu cánh: Quả vị rốt ráo của sự tu chứng, tức là quả Phật ,
cũng như người đi đường đã hoàn toàn tới chỗ.
Trong Duy-thức tam thaạp tụng có chép:
Nguyên văn:
Thử tức vô lậu giới
Bất tư nghi, thiện , thường
An lạc, giải thoát thân
Ðại Mâu-ni danh pháp.
Nghĩa là: Ðây là cảnh giới vô lậu, cũng gọi là: a) Bất
tư nghị, b)Thiện, c) Thường, d) An lạc, đ) Giải thoát thân, e) Ðại Mâu-ni, cũng
gọi là Pháp thân (quý vị muốn rõ thêm, xem cuốn Duy-thức học, tập V tức là Duy-thức
tam thập tụng ).
VIII.
KẾt QuẢ Tu ChỨng
Hành-giả sau khi đã dày
công tu-luyện pháp-môn Duy-thức này, sẽ được nhiều thành quả tốt đẹp như sau:
1. Ðược bốn trí:
a) Thành sở tác trí:
Trong khi còn sống trong mê vọng, năm thức trước của chúng ta là nhãn, nhĩ, tỹ,
thiệt và thân thức, duyên với cảnh giới năm trần là sắc, thanh, hương, vị và xúc
trần; nhờ thế, mà chúng ta mới thấy được sắc, nghe được tiếng , ngữi được mùi, nếm
được vị và cảm giác được cảnh giới chung quanh. Nhưng cái giá trị và tầm hoạt động
cũng như công dụng của năm thức ấy rất nhỏ hẹp và thường hay sai lạc, nhận giả làm
thật. Do đó, chúng ta tạo ra các nghiệp sanh tử luân hồi, quay cuồng trong lục đạo.
Ðối với người tu Duy-thức khi đã thành tựu rồi, thì năm thức này chuyển ra thành
cái trí "thành sở tác", nghĩa là cái trí này có những công năng vô cùng rộng lớn
như thị hiện thần thông biến hóa, hiện ra ba món hóa thân, để tùy theo căn cơ của
chúng sanh mà hóa-độ.
b) Diệu quán sát trí:
Khi đang còn ở trong mê, thức thứ Sáu chỉ biết so đo, tính toán trong phạm vi nhỏ
hẹp, tầm hoạt động không thể bao quát cùng khắp được. Do đó mà nó thường hay
sai lạc, lầm lẫn, và lôi kéo thân và miệng làm nhiều điều tội lỗi, tạo ra các nghiệp
sanh tử luân hồi. Ðến khi đã chứng được Duy-thức quả rồi, thì cái thức thứ Sáu này
chuyển thành cái trí Diệu-quan-sát, nghĩa là cái trí quan sát rất là mầu nhiệm,
có thể thấy được hằng-sa thế giới; trong mỗi thế giới thấy được toàn thể chúng sanh,
trong mỗi chúng sanh thấy được bao ngạc nhiêu tâm niệm v.v... Và nhờ sự quan sát
huyền diệu rốt ráo như thế mà tùy theo nguyện vọng, tâm lý, làm lợi lạc cho chúng
sanh.
c) Bình đẳng tánh trí:
Trong khi mê, thức thứ Bảy chấp kiến phần của thức thứ Tám là ngã. Khi đã chấp "ngã",
tất nhiên chỉ biết có ngã là quan trọng nhất, và mọi ý nghĩ, mọi hành động, mọi
lời nói gì cũng đều quy tụ chung quanh cái ngã. Ðiều gì thích hợp với cái ngã thì
yêu thương, chiều chuộng, cưng dưỡng, điều gì trái với cái ngã thì khinh ghét, hất
hũi, chà đạp. Do đó, gây ra không biết bao nhiêu là bất công, bất bình đẳng, làm
xáo trộn, điêu đứng phá hũy cõi trần gian này. Ðến khi chứng được Duy-thức quả,
thức thứ Bảy này không còn chấp ngã nữa, mà chỉ thấy mình và người, cho đến lòai
vật đều như nhau. Khi đã có được trí bình đẳng rồi thì sẽ dùng tâm từ bi hiện đủ
phương tiện, để tùy theo căn cơ mỗi loài mà hóa độ, làm cho chúng sanh đều được
giải thoát.
d) Ðại viên cảnh trí:
Khi còn mê-mờ bị thức thứ Bảy chấp ngã và bị các chủng-từ phiền-não hữu-lậu, nhiễm-ô
chi-phối, nên thức thứ Tám không được sáng suốt thanh-tịnh. Ðến khi nhờ tu-hành,
chứng được Duy-thức tánh, thì thức thứ Tám này trở thành như một cái gương lớn được
lau chùi sạch bụi-bặm, có thể phản chiếu khắp cả mười phương thế-giới, nên gọi là
'Ðại viên cảnh trí'.
2. Hai trí:
Bốn trí trên này, tuy có phân chia khác nhau, tùy theo
công năng của mỗi thứ, nhưng rốt lại, có thể gồm hai trí sau đây là Căn-bản trí
và Hậu-đắc trí.
a) Căn-bản trí: Tức là trí thể, chư Phật có chúng sanh đều sẳn có. Trí này cũng gọi là
Vô phân-biệt trí.
b) Hậu đắc trí:
Trí là trí dụng. Sau khi chứng quả Thánh, được Căn-bản trí rồi mới được Hậu-đắc
trí. Trí này cũng gọi là Sai-biệt trí; nghĩa là trí phân biệt các pháp do tánh y-tha-khởi
mà có sai khác.
Tóm lại, thành quả rốt-ráo của người tu học Duy-thức là chuyển đổi
được tám thức thành bốn trí là: Thành-sở-tác trí, Diệu-quán-sát trí, Bình-đẳng-tánh
trí và Ðại-viên-cảnh trí. Ðứng về mặt thể và dụng mà xét thì bốn trí này chỉ
gồm lại làm hai là: Căn-bản trí và Hậu-đắc trí. Khi đã được hai trí này hành-giả
đã chứng được Duy-thức tánh, ngộ nhập chơn-tâm, hoàn thành quả Phật.
IX. LỢi
Ích ThiẾt ThỰc Trong Khi HỌc Và Tu Duy ThỨc
Kết quả thu hoạch được như trên, hành-giả tất phải
trải qua nhiều kiếp tu-hành. Nhưng chúng ta đừng thấy con đường đi quá xa-xôi, diệu
vợi mà nản chí. Vã lại không phải đợi đến khi thu hoạch được kết-quả cuối cùng mới
nhận chân được sự lợi ích của pháp môn này. Ngay trong khi đang tu học, môn Duy-thức
này cũng đã đem lại cho chúng ta nhiều lợi ích thiết thực cho đời sống hiện tại
rồi.
1.- Chúng ta tự biết được mình một cách
rõ-ràng:
Từ hồi nào đến giờ, chúng cho ta thân tâm này là của
ta, tưởng rằng chúng ta đã hiểu rõ bản thân của ta nhiều lắm. Nhưng nghĩ cho kỹ,
chúng ta chỉ biết sơ sài về chúng ta mà thôi. Về thân xác này, chúng ta chỉ thấy
được những bộ phận ở bên ngoài như mặt, mũi, tay, chân v.v... Muốn biết các
bộ-phận bên trong, chúng ta tất phải học khoa phẩu thuật.
Về tâm-tánh chúng ta lại càng dốt hơn nữa. Nhiều khi
chúng ta tưởng hiểu rõ nội tâm của mình, kỳ thật đã lầm nhiều lắm. Vậy muốn rõ biết
tâm-tánh một cách rõ ràng, chúng ta hãy tu học Duy-thức. Như phần trên đã nói, Duy-thức
học đã phân tích, chia-chẻ một cách tường tận, tỉ-mỉ, tâm-lý của chúng ta, liệt
kê ra thành nhiều loại; mỗi loại có tên riêng, hành-tướng, công-năng, phạm-vi hoạt-động
khác nhau như thế nào. Học Duy-thức, chúng ta thấy được phần nội tâm một cách rõ
ràng như người cầm gương soi, thấy tất cả những gì ở trên mặt. Chúng ta sẽ biết
rõ những tâm-niệm xấu-xa để diệt-trừ (tu tâm), những tánh-tình tốt đẹp để bồi dưỡng
(dưỡng tánh). Do đó, chúng ta sẽ trở thành người hiền lương, đạo-đức.
2.- Chúng ta thấy được cái chánh-phủ nội
tâm của chúng ta:
Tâm-lý của mỗi người mới xem qua thật vô cùng phức-tạp;
nhưng nếu suy nghiệm cho kỹ, chúng ta thấy vẫn có một tổ chức gần giống như một
liên-bang. Trước tiên, thức thứ Tám như một vị Tổng-thống của liên-bang; các
Tâm-vương khác như một vị Tổng-thống của liên bang; các Tâm-vương khác như các vị
đứng đầu của tiểu-bang; các tâm-sở Biến-hành như một vị Bộ-trưỏng; các Tâm-sở Biệt-cảnh
như các vị Tỉnh-trưởng, Quận-trưởng; các tâm-sở Bất-định như các vị dân-biểu không
đảng phái; các tâm-sở Thiện như các vị công-thần liêm-khiết hay các vị công-chức
tận tâm vì dân vì nước; các tâm-sở phiền não như những tham quan ô lại, hay giặc
giả, lưu manh v.v... con các chủng-tử (thiện, ác, vô ký) thì như toàn thể dân chúng
trong liên bang.
Với một liên-bang nội tâm như thế, nếu chúng ta biết
sắp đặt điều hòa bộ máy chính-quyền nội tâm cho vững vàng, thì tất nhiên liên-bang
ấy sẽ vững mạnh, hùng-cường, và văn minh tiến bộ. Trái lại, nếu chúng ta không nắm
vững được bộ máy hành-chính nội-tâm, thì liên-bang ấy sẽ loạn lạc, đói khổ và không
sớm thì muộn, sẽ rơi vào vực thẳm tối tăm.
Duy-thức học giúp cho chúng ta thấy rõ chánh-phủ nội-tâm
của mình, để tự điều hòa cho được thạnh trị, thái-bình.
3.- Chúng ta trau giồi được một đức tánh
tốt đẹp là tánh 'kiên nhẫn':
Học Duy-thức, trước tiên chính là chúng ta học đức
tính kiên nhẫn. Thật vậy, người không kiên nhẫn không thể học Duy thức đến nơi đến
chốn được, vì môn học này chia chẻ tâm lý một cách tỷ mỉ, phiền toái; mỗi tâm niệm
đều có nhiều danh từ chuyên môn, và được nghiên cứu kỹ lưỡng về tánh chất, hành
vi, tướng trạng... Những người không chịu khó, tánh tình hời hợt, nóng nảy, không
thể nào thành công được trên đường tu học Duy-thức. Cho nên chỉ những người kiên
nhẫn mới thành công, hay ngược lại, muốn thành công thì phải luyện tập đức tính
kiên nhẫn. Từ xưa đến nay, trong đạo hay ngoài đời, những người được thành công
vĩ đại đều nhờ đức tánh kiên nhẫn.
4.- Chúng ta giữ được thái-độ bình-tĩnh
tự tại:
Như các đoạn trước đã nêu rõ, mọi sự vật trong vũ trụ
này đều do thức biến, chớ không chắc thật. Do đó, khi gặp điều may mắn, chúng
ta không kiêu hãnh, ngã mạn, cống cao; khi gặp cảnh đau buồn như tử biệt sanh ly...
chúng ta bớt khổ não, kêu than, giữ được thái độ bình tĩnh và cũng cho biết được
cõi đời là giã tạm, như mây bay, như gió thoảng, nên chúng ta không say đắm, tham
lam, luyến tiếc, và nhờ thế, chúng ta bớt dần những nghiệp dữ, chóng được giải thoát.
5.- Chúng ta nắm vững lòng tin:
Học Duy-thức, chúng ta thấy được giá trị cao siêu của
nó, nên lại càng tin tưởng mạnh mẽ vào tôn giáo của chúng ta, một tôn-giáo không
phải dựa trên giáo điều độc đoán, mà dựa trên thực nghiệm, và lấy ngay nội tâm của
con người làm nền tảng cho sự tu học của mình.
X.
KẾt LuẬn
Chúng tôi đã trình bày xong những điểm chính yếu của
Duy-thức tôn hay Pháp tướng tôn. Tất nhiên, với phạm vi những bài giảng này,
chúng tôi không thể đi sâu vào chi tiết, trình bày một cách rộng rãi, đầy đủ hơn.
Quý vị nào muốn nghiên cứu sâu xa về môn học này, xin hãy tìm trước tiên ba bộ sách
chính tông của Duy-thức là: Ðại-thừa Bá Pháp minh môn luận (Duy-thức nhập môn),
Duy-thức Tam Thập Tụng và Bát Thức Quy-củ tụng; sau đó sẽ nghiên cứu thêm những
tập sách khác hiện đã xuất bản rất nhiều ở Việt Nam .
Tuy thế, sau khi xem qua nội dung bài này, quý vị có
thể quyết định được con đường tu hành của quý vị rồi. Nếu quý vị thấy đây là một
con đường tu hành thích hợp và thiết thực lợi ích đối với mình thì xin hãy hạ thủ
công phu ngay, nghĩa là ngày đem quan sát kiểm thảo tâm thức của mình. Như quý vị
đã biết, trong mỗi chúng ta đều có sáu đầu đảng giải quyết sáu món Căn bản phiền
não. Sáu đầu đảng này lại có hai mươi tên bộ hạ nguy hiểm là 20 Tùy phiền não. Chính
bọn giặc cướp này, từ vô thỉ đến nay phá hoại chúng ta vô cùng vô tận, làm cho chúng
ta điêu đứng và trầm luân trong biển khổ sanh tử luân hồi. Nếu ngày nay biết được
sự tàn phá của chúng, quyết tâm diệt trừ, không cho chúng hoành hành, chắc chắn
cuộc đời chúng ta an cư lạc nghiệp (xem quyển Tu Tâm).
Hơn nữa, bên cạnh những bọn giặc cướp ấy, chúng ta
còn có những anh hùng nghĩa sĩ, chuyên làm các việc thiện là 11 món tâm sở thiện.
Với những vị hảo hán này, chúng ta phải luôn luôn ân cần trọng đãi, khuyến khích
cổ võ để cho họ càng thêm hăng hái và mạnh mẽ làm các việc lành (xem quyển Dưỡng
Tánh).
Một khi các tâm niệm xấu xa hoàn toàn tiêu diệt, các
đức hạnh tốt hoàn toàn đầy đủ, chúng ta sẽ thành Phật quả.
Cầu mong quý vị thành công.
MẬT TÔN
I. DUYÊN KHỎI LẬP TÔN
Tôn này thuộc về Ðại-thừa, thờ Ðức Ðại Nhựt Như Lai
(Tì Lô Giá Na) làm giáo chủ. Ngài Kim Cang Bồ Tát đích thân chịu làm lễ quán đảnh,
kế thừa pháp mầu nhiệm của Ðức Ðại Nhựt Như Lai, vì thế cho nên tôn này gọi là Mật
Tôn hay Chơn ngôn tôn (lời dạy chơn thật mầu nhiệm, bí mật).
Ngài Kim Cang Bồ tát truyền cho Ngài Long Thọ; Ngài
Long Thọ truyền cho Ngài Long Trí; Ngài Long Trí truyền cho Ngài Thiện Vô Uĩy Tam
tạng và Ngài Kim Cang Trí Tam tạng.
Vào đầu đời Ðường, hai Ngài Vô Úy và Kim Cang sang
Trung Hoa, rộng truyền bí pháp Mật tôn.
Ngài Vô Úy truyền cho Ngài Nhất Hạnh Thiền sư. Ngài
Nhất Hạnh Thiền sư sớ thích kinh Ðại Nhật làm cho giáo nghĩa của Mật tôn được rõ
rệt ở Trung Hoa. Còn Ngài Kim Cang Trí thì truyền giáo pháp cho Ngài Bất Không Tam
Tạng. Ngài sau này truyền cho Ngài Huệ Quả Hòa thượng, Ngài Huệ Quả truyền cho Ngài
Không Hải là một Ðại sư người Nhật. Ngài Không Hải về sau trở thành vị tổ Mật tôn
ở Nhật.
Mật tôn có nhiều phái: a) Mật tôn ở Trung Hoa; b) Mật
tôn ở Nhật thường gọi là Ðông mật; c) Mật tôn ở Tây tạng tức là Lạt ma giáo, hay
là Tạng Mật.
Kinh điển của Mật tôn. - Tôn này nương vào hai bộ kinh lớn làm cội gốc bộ kinh đại Nhật và kinh
Kim Cang Ðảnh. Nếu kể thêm ba bộ kinh Tô tất địa, Du ký và Yếu lược niêm tụng, thì
thành ra năm bộ kinh về Mật tôn.
Ðức Ðại Nhựt Như Lai,
(hay Tỳ Lô Giá Na) là thế nào? Như chúng ta đã thấy ở đoạn đầu, Tôn này thờ
Ðức Ðại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na) làm Giáo chủ và Ngài Kim Cang Bồ Tát (tức
Ngài Kim Cang Tát Ðỏa) băng phương pháp quán đảnh đã nhận lãnh pháp mầu nhiệm của
Ðức Ðại Nhựt Như Lai để truyền thừa Tôn này.
Nhưng Ðức Ðại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na) là thế
nào?
- Như chúng ta thường nghe nói Phật có 3 thân là: Pháp
thân, Báo thân và Ứng thân.
1. - Pháp Thân, hay từ tánh thân là pháp giới chơn tịnh của các đức
Như Lai, làm sở y bình đẳng cho Báo thân và Ứng thân; Pháp Thân tức là thể tánh
thân tịnh có đầy đủ công đức, thật tánh bình đẳng của hết thảy các pháp.
2. - Báo Thân, hay thọ dụng thân, là thân của các Như Lai do thành
tựu công đức tu hành trãi qua ba đại kiếp mà được.
3. - Ứng Thân, hay biến hóa thân, là thân chư Phật do trí thành
sở tác mà biến hóa ra thành vô lượng thân, ứng theo căn cơ của chúng sanh mà hóa
độ. Như đức Phật Thích Ca là ứng thân của Phật trong cõi Ta-bà này. Vậy đại Nhựt
Như Lai (hay Tỳ Lô Giá Na), không phải là đức Phật Thích-Ca như một số người lầm
tưởng, mà chính là Pháp-thân Phật.
Theo các tôn phái khác thì pháp thân không có hình
tướng, không thuyết pháp chỉ báo thân và ứng thân, như đức Phật Thích-Ca mới có
hình tướng và nói pháp.
Theo Mật tôn thì có chia ra làm hai loại giáo pháp: Hiển giáo và Mật
giáo.
Những lời dạy của ứng thân Phật, như đức Phật Thích
Ca thì tùy theo căn cơ của mỗi chúng sanh mà chỉ dạy, tức là pháp môn quyền thiệt
hay là Hiển giáo.
Còn Mật giáo là những pháp môn mầu nhiệm, bí mật mà
chỉ những vị đại Bồ tát, nhờ trí huệ sáng suốt, mới cảm thông, họ lãnh được của
pháp thân Phật, như Ngài Bồ tát Kim cang Tát đỏa, nhờ quán đảnh mà thừa tiếp pháp
mầu nhiệm của Ðức Ðại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na).
Tóm lại, Mật tôn thuộc về Mật giáo. Vị Giáo chủ bí
mật là Ðức Ðại Nhựt Như Lai, (hay pháp thân Phật). Còn vị sơ tổ của tôn này là Ngài
Bồ tát Kim cang Tát đỏa là vị Bồ tát đã chép lại kinh Ðại Nhựt và kinh Kim Cang
Ðảnh.
II. TÔN CHỈ VÀ GIÁO LÝ CĂN BẢN
1.- Lục đại: Mật tôn chủ trương Lục đại là chơn thật thể của vũ
trụ. Lục đại là: địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại và thức đại. Lục
đại là bản nguyên của các tánh năng sinh (sinh ra), năng lưu (lưu xuất ra).
Trong lục đại thì năm đại trước thuộc về vật, đại cuối
cùng (thức đại) thuộc về tâm. Sáu đại này mỗi mỗi đều dung thông, không ngăn ngại,
thâu nhiếp lẫn nhau, làm nhân làm duyên cho nhau mà sinh ra các pháp.
Lục đại bao hàm 3 phương diện:
- Thể đại, tức là bản thể
chung cùng của vũ trụ.
- Tướng đại, tức là hình
tướng của sự vật và chúng sanh.
- Dụng đại, tức là ngôn
ngữ, động tác, công dụng của mỗi sự vật.
Vũ-trụ vạn-hữu không có cái gì ra ngoài Thể-đại, Tướng-đại,
Dụng-đại.
Thể, Tướng, Dụng là chúng ta dùng trí lực chia chẽ
ra như thế để dễ quán sát; chứ thực ra ba phương diện ấy không thể rời nhau, không
thể tồn tại riêng rẽ được. Ngoài Thể-đại, thì Tướng-đại và Dụng-đại cũng không thể
có được; ngoài Tướng-đại thì Thể-đại và Dụng-đại cũng không thể có được. Vì vậy
xét một phương diện thì rõ được cả ba.
Như chúng ta đã thấy ở đoạn trên: sáu đại dung thông,
thâu nhiếp lẫn nhau, và ba phương diện: thế, tướng, dụng cũng không thể rời nhau,
nên vũ trụ vạn hữu, mặc dù muôn hình vạn trạng, rộng lớn vô biên, vẫn có lý dung
thông vô ngại, châu biến khắp tất cả. Cái đó gọi là lý tánh hay chơn như. Lý tánh
hay chơn như là nòng cốt của sự tướng nhưng nếu không có sự tướng, thì chơn như
hay lý tánh cũng không thể biểu dương được. Lý tánh và sự tướng là hai khía cạnh
tịnh và động của nhất như. Nói tóm lại, có lý tức có sự, có sự tức có lý.
Lý tánh của vũ-trụ vạn-hữu cũng tức là Phật tánh. Như vậy, Phật tánh đều sẵn có
trong mọi chúng sanh, trong mọi hình thức.
Muốn chứng ngộ Phật tánh, muốn thể nhập chơn như, trước
tiên phải quan sát sự tướng, sự tướng có thể gồm trong bốn loại sau đây, tức là
bốn Mạn-trà- la.
2.- Bốn Mạn trà-la: Mạn-trà-la nghĩa là tròn trịa đầy đủ, rộng lớn
không lường. Bốn pháp Mạn-trà-la, hay gọi tứ Mạn-tướng-đại, là bốn tướng rộng lớn,
đầy đủ của bản thể do sáu đại mà biến hiện ra. Bốn pháp Mạn-trà-la là:
a) Ðại Mạn-trà-la.
– Nghĩa rộng là thân của các loài hữu tình trong mười pháp giới, là sắc tướng của
môn pháp trong vũ trụ, các sắc tướng của môn pháp trong vũ trụ, y theo lục đại mà
hiện.
Nghĩa hẹp là chỉ cái sắc tướng trang nghiêm của Phật,
Bồ tát được thể hiện trong các pho tượng chạm trổ, tô vẽ v.v...
b) Tam muội gia Mạn-trà-la.
- Nghĩa rộng là hết thải các cơ khí trong vũ trụ, những vật dụng thường ngày của
chúng sanh, hay rộng hơn nữa là cái đặc tánh riêng biệt của mỗi pháp, núi, sông,
cây cỏ... Nghĩa hẹp là chỉ những vật mà Phật và Bồ tát thường cầm như hoa
sen, ngọc bửu châu, cành dương liễu để tiêu biểu cho lời thề nguyện hay cái đặc
tánh thù thắng riêng của quý Ngài trong việc cứu độ chúng sanh.
c) Pháp Mạn-trà-la.
Nghĩa rộng là hết thảy âm thanh, lời nói, hình ảnh, tên gọi, ký hiệu trong vũ trụ.
Nghĩa hẹp là chỉ cho những chủng tử hay chơn ngôn của các đức Phật hay Bồ tát. Chủng
tử ở đây tức là chữ Cái. Chữ tiêu biểu cho bản thể của Phật và Bồ tát, như chủng
tử của đức Ðại Nhựt Như Lai (đọc là A), chủng tử của Ngài Kim Cang Tát đỏa (đọc
là Hùm). Còn chơn ngồn tức là Mật chú, và danh hiệu của Phật, Bồ tát cùng tất cả
văn nghĩa trong các kinh điển.
d) Yết-ma Mạn-trà-la.
- Yết-ma là cử động làm các sự nghiệp. Vậy nghĩa rộng của Yết-ma Mạn-trà-la là chỉ
cho hết thảy động tác của chúng sanh và muôn vật. Nghĩa hẹp là chỉ cho hết
thảy oai nghi động tác của chư Phật và Bồ tát để làm các sự nghiệp độ sinh.
Bốn Mạn-trà-la này đồng thời tồn tại, đã có một Mạn-trà-la,
tức phải có ba Mạn-trà-la kia. Bốn Mạn này Phật, Bồ-tát và chúng sanh đều
có. Bốn mạn của Phật không lìa bốn mạn của chúng sanh; bốn mạn của chúng sanh không
lìa bốn mạn của Phật. Vì thế, kinh thường gọi là bốn mạn không lìa nhau.
III. PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH
Cũng như các tôn phái khác trong Phật Giáo, sự tu hành
của Phật tôn có hai phương diện: Sự và Lý, hay nói theo danh từ của Mật tôn là Giáo-tướng
và Sự-tướng.
Sự tướng
là tất cả những thực hành như tụng chú, kết ấn, cúng dường, lập đàn ... Tất
cả những thực hành ấy phải theo đúng khuôn phép nhất định, chứ không thể dùng ý
riêng mà làm càn được.
Giáo tướng
là tất cả những ý nghĩa sâu xa mầu nhiệm mà chư Phật và Bồ tát đã rút ra trong sự-tướng
để dạy chúng ta.
Người tu hành phải học tập và thực hành cả hai phương
diện ấy, không được thiên bỏ bên nào. Không học giáo-tướng thời không lãnh hội được
ý nghĩa của sự-tướng để làm cho đúng. Không học sự-tướng thì hết thảy đều là nói
suông. Giáo-tướng thì có thể nương theo kinh điển mà học hỏi; còn sự-tướng thì phải
có các bậc A-xà-lê, tức các vị truyền đạo của Mật-tôn, truyền cho mới biết được.
Ngoài sự tu hành thường ngày, phương pháp tu hành trọng yếu của Mật
tôn là
Tam mật.
Tam mật là phương pháp tu hành mầu nhiệm dựa trên thân,
ngữ, ý. Tam mật gồm có: Thân mật, ngữ mật (khẩu mật ) và ý mật.
Như trên đã nói, chúng sanh và đức Như Lai đều có sáu
đại làm thể, bốn pháp Mạn-trà-la làm tướng, không sai khác. Vậy Như Lai và chúng
sanh thì thể-tướng mật. Như đức Ðại Nhựt Như Lai đều có tam pháp giới là thân mật,
hết thảy tiếng tăm là ngữ mật. Cái thức lớn bao khắp tất cả là ý-mật. Còn
chúng sanh, thì tay bắt ấn là thân-mật, miệng niệm chơn ngôn là ngữ-mật, tâm chuyên
vào tam-ma-địa (thiền định) là ý-mật.
Nhưng Phật và chúng sanh khác nhau ở tịnh và nhiễm,
ngộ và mê, giải thoát và ràng buộc. Vậy muốn được như Phật, phải tu hành theo phép
tam mật. Nhờ tay bắt ấn mà tịnh được thân nghiệp, miệng niệm chơn ngôn mà tịnh được
khẩu nghiệp, trí quán tưởng đức Ðại Nhựt Như Lai mà dẹp được vọng tưởng, ý nghiệp
được thanh tịnh. Sự tu hành tam mật có thể chia làm hai giai đoạn lớn.
Giai đoạn đầu gọi là Tam-mật gia-trì.
Trong giai đoạn này, sau khi hành-giả đã làm chủ được thân, ngữ, ý rồi thì tâm thủy
( tâm vắng lặng như nước đứng yên) cả mình được ánh sáng mầu nhiệm của Ðịa Nhựt
Như Lai chói rọi vào, tức là "Gia"; và tâm thủy mình cùng cảm chịu, thu nhận được
ánh sáng mầu nhiệm ấy tức là "Trì". Một bên thì "Gia", một bên thì"Trì", hai bên
thừa tiếp nhau nên gọ là Tam-mật gia-trì.
Giai đoạn thứ hai gọi là Tam-mật du-già.
Khi giai đoạn Tam-mật gia-trì đã thuần thục, thì ánh sángcủa đưc Ðại Nhựt Như Lài
là ánh sáng trong tâm thủy của hành-giả hiệp nhau (du già) không sai không khác,
thì gọi là "Tam-mật du-già". Ðến đây tức là công phu tu hành hữu tướng tam
mật đã thành tựu.
IV. QUẢ VỊ TU CHỨNG
Hành-giả sáu khi đã thành tựu Tam-mật hữu tướng, thông
suốt được ý nghĩa mầu nhiệm của bốn Mạn-trà-la, thì nhất cử, nhất động đều rập khuôn
đúng theo oai nghi của Phật, làm lợi lạc cho chúng sanh một cách tự nhiên, có làm
tất cả mọi việc lợi ích mà như không làm. Ðó tức là vô tướng tam mật.
Ðến độ vô tướng tam mật thì mọi hành vi cử động đều toàn là ấn cả,
hết thãy lời nói đều là chú và chơn ngôn, hết thãy ý nghĩ đều là diệu quán cả. Do
đó mà trong kinh có câu nói sau đây để hình dung hạng người đã chứng được vô tướng
tam mật: "mỡ miệng ra tiếng, chơn
ngôn diệt tội; dơ tay động chân, đều thành mật ấn; theo việc khởi niệm, diệu quán
tự thành".
Ðó cũng là ý nghĩa của bốn chữ "tức thân thành Phật
"; nghĩa là hiện đời thành Phật.
V. KẾT LUẬN
Sự lợi ích tu về Mật tôn, đến khi kết quả cùng tột
cũng đồng một mục đích như các pháp môn khác; nghĩa là ba nghiệp thanh tịnh. Thân
ngồi trì chú, tay bắt ấn, nên thân không làm các việc tội ác, vì thế mà thân nghiềp
được thân tịnh (thân mật). Miệng đọc thần chú, nên miệng không nói các điều tội
lỗi, vì thế mà khẩu nghiệp được thanh tịnh (ngữ mật). Tâm tưởng chú hoặc quán tưởng
những chữ thần chú, nên tâm không nghĩ tưởng những điều tội lỗi, vì thế nên ý nghệp
được thanh Ttịnh (ý mật). Kinh chép: "Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật
vãng Tây phương". Nghĩa là:nếu ai ba nghiệp chướng thanh tịnh thì được về
tây phương đồng ở với Phật.
Trì chú có rất nhiều lợi ích, như trì chú Vãng-sanh
sẽ nhỗ sạch hết gốc rễ của nghiệp chướng và được sanh về Tịnh độ (bạt nhứt thế nghiệp
chướng căn bản, đắc sanh Tịnh độ Ðà-la-ni); trì chú Lăng-nghiêm sẽ được tiêu trừ
các oan gia nghiêp chướng và tình ái-dục nặng nề từ nhiều kiếp trước, như ông A-nan
và bà Ma-Ðăng-Già ( xin quý vị xem quyển Ðại cương Lăng nghiêm về đoạn nói lợi ích
trì chú Lăng nghiêm); trì chú Phổ-am sẽ tiêu trừ được phục thi cốt khí các yêu tinh
quỷ quái trong gia trạch; trì Ngũ-bộ chú hay Ðại-bi Thập chú sẽ được phước huệ tăng
long, tùy tâm hành-giả cầu như thế nào, sẽ được mãn nguyện như thế ấy.
PHÁP HOA TÔN
hay là THIÊN THAI TÔN
I. DUYÊN KHỞI LẬP TÔN
Thiên thai tôn được khởi xướng từ Bắc tế. Do Ngài Huệ văn
Thiề n sư dựa vào bộ trí độ luận mà lập ra pháp 'Nhứt tâm quan quán'. Pháp
quán này được truyền cho Ngài Nam Nhạc Huệ Tự Thiền sư. Ngài Huệ Tự lại truyền cho
Ngài Trí Giả ở núi Thiên Thai. Ngài Trí Giả là một bậc đại sư, y theo kinh Pháp-hoa, bổ túc thêm cho pháp
'Nhứt tâm quan quán' được hoàn bị và lập thành một tôn phái có uy thế ở núi Thiên Thai.
Do đó mới có tên là Thiên Thai tôn (hoặc gọi Pháp hoa tôn). Vị đại đệ
tử của Ngài Trí Giả là Ngài Chương An Ðại sư ghi chép lại những lời của Thầy, làm
ra nhiều bộ luận có giá trị, để làm cơ sở cho Thiên Thai tôn, như bộ Pháp-hoa huyền
nghĩa, Pháp-hoa văn cú, Ma-ha chỉ-quán. Từ Ngài Chương An, giáo nghĩa của
tôn này được hoằng truyền mãi cho các vị Ðại đệ tử, thứ tự như sau: Ngài Trí Oai,
Ngài Huệ Oai, Ngài Huyền Minh và Ngài Trạm Nhiên.
Ðến đời Ngài Trạm Nhiên, cũng gọi là Kinh-Khê tôn giả,
giáo-lý và tôn chỉ của Thiên Thai tôn lại được rộng truyền và thêm nhiều thanh thế,
vì Ngài Trạm Nhiên là một vị cao tăng, học rộng, biết nhiều, bổ túc thêm các bộ
luận căn bản của tôn được hoàn bị, từ Ngài Trạm Nhiên về sau, đời nào cũng có những
vị đệ tử có tài đứ rộng truyền giáo nghĩa của tôn này.
Kinh sách của Thiên Thai tôn rất nhiều, trong số này
có thể lựa ra ba bộ sách lớn làm căn bản cho tôn này là: Pháp-hoa huyền nghĩa, Pháp-hoa
văn-cú, Ma-ha chỉ-quán. Ngoài ra có thể thêm năm bộ nhỏ, tuy không quan trọng
bằng ba bộ trên, nhưng cũng rất cần thiết cho người tu học là: Quán-âm huyền nghĩa,
Quán-âm nghĩa sớ, Kim-quang-minh huyền-nghĩa, Kim-quan-minh văn-cú và Quán-kinh-sớ.
II. TÔN CHỈ VÀ GIÁO LÝ CĂN BẢN
Cũng như các tôn phái khác trong Phật Giáo, Thiên thai
tôn không đi ra ngoài giáo-lý căn bản của đức Phật. Ðó là: 'Chư
pháp duy nhứt tâm'. Cái công lớn nhất của Thiên thai tôn là làm sáng tỏ giáo-lý
trên bằng một phương-pháp diễn dịch rất là minh bạch tinh vi.
Sao gọi là “Chư pháp duy nhứt
tâm?” Theo Thiên-thai tôn thì ngoại tâm không có các pháp, ngoài các pháp
không có tâm. Tâm tức là nhất thiết pháp, nhất thiết pháp ấy là tâm. Hai cái không
phải là khác, nhưng cũng không phải là một. Tâm bao trùm tất cả. Tâm tức là chúng
sanh, tâm cũng tức là Bồ-tát, Phật. Sinh tử cũng ở nơi tâm ấy, Niết-bàn cũng
nơi tâm ấy.
Nhưng làm sao để nhận chân được những phương diện của
tâm, mà mới nghe qua hình như là trái ngược, mâu thuẩn nhau ấy?
Muốn thấy được toàn diện của tâm, người quan sát phải
đứng nhiều khía cạnh, nhiều quan điểm khác nhau mà nhìn:
- Nếu chúng ta đứng về phương diện truyệt đối mà xét
sự vật (hay nói theo danh từ nhà Phật, đứng về phương diện chơn đế), thì thấy sự
vật trong vũ trụ, không có một sự vật gì nó đứng vững một mình và tồn tại, mọi vật
không có thể tự riêng biệt, mọi vật đều do nhân duyên mà thành. Cái 'có' của sự
vật là một cái có tạm bợ giả dối, 'có' mà cũng như 'không'. Ðứng về phương
diện tuyệt đối mà xét thì không có một pháp nào là tuyệt đối cả. Cho nên gọi là
'không'.
- Nhưng nếu đứng về phương diện tương đối mà xét (hay
nói theo danh từ nhà Phật, đứng về phương diện tục đế), thì không thể bảo mọi pháp
là hoàn toàn 'không' được. Trước mắt chúng tánh, đành rành có đủ mọi vật, và mỗi
vật có một giới hạn, một đời sống riêng biệt, sao lại bảo là hoàn toàn 'không'?
Cho nên đứng về phương diện đối đãi, thì mọi vật không thiếu một vật gì.
Ðứng về phương diện tuyệt đối, thì vạn pháp là 'không'; đứng về phương
diện tương đối thì vạn pháp là 'có'. 'Không' và 'có' đấy là hai phương diện
của tâm. Lấy phương diện này mà bỏ phương diện kia, hay trái lại lấy phương diện
kia mà bỏ phương diện này, đều là thiên chấp, thiếu sót. Một giáo lý hoàn toàn là
phải chấp nhận cả hai phương diện ấy. Ðó là trung đạo. Phải là trung đạo, mới có
thể tuyên bố: 'Tâm là nhứt thiết pháp, nhứt thiết pháp là tâm; tâm là sanh tử luân
hồi, mà cũng là Niết bàn tịch tịnh'.
Như thế tâm có đầy đủ các tánh: thiện và ác, tịnh và
bất tịnh, Phật và chúng sanh. Trong cõi sanh diệt vô thường, vẫn có cái lý bất sanh
bất diệt; trong cõi Ta-bà, vẫn có cảnh giới của Phật. Ðó là ý nghĩa của câu
'pháp môn tánh cụ', nghĩa là bản tánh bao giờ cũng có đủ các pháp, như lành và
dữ, tịnh và bất tịnh v.v… Do có đủ các pháp, nên hành động như thế nào thì
kết quả như thế ấy. Muốn thành Phật thì tạo nhơn Phật, còn muốn làm chúng sanh thì
tạo nhơn chúng sanh. Chúng sanh muốn thành Phật chỉ dứt trừ ác nghiệp và chuyển
lại tu thiện nghiệp
Và cũng vì có đủ các pháp, nên trong mỗi pháp giới
là sáu loại phàm phu (Ðịa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, A-Tu-la, Nhơn, Thiên) và bốn
thánh bậc (Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát và Phật).
Do chủ trương: 'Pháp môn tánh cụ', và mỗi pháp giới
đều có đủ mười pháp giới, nên quan niệm tu hành của Thiên-thai tôn cũng lạc quan
hơn các tôn phái khác. Ở trong pháp giới nào cũng dù tối tăm, khổ sở bao nhiêu
cũng có thể tu hành và thành tựu được. Như thế không cần từ bỏ một cảnh giới này,
cầu sanh vào một cảnh giới khác mới có thể tu hàng và thành Phật.
III. PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH
Phần chủ trương của Thiên thai tôn như đã trình bày
ở trên, có phần lạc quan và dễ dàng: trong cảnh-giới hiện tại có đủ cảnh-giới phàm
và thánh, muốn thành Phật, Bồ-tát thì cứ gieo nhơn (tu hành) thành Phật, Bồ-tát.
Ðó là nói về lý thuyết. Nhưng trong thực hành không phải dễ dàng như thế.
Trước tiên, chúng ta phải nhận định hoàn cảnh thực
tế của chúng sanh là một hoàn cảnh bị che phủ rất nhiều mê lầm, hay nói theo thuật
ngữ nhà Phật thì là 'chướng' hay 'hoặc'. Dứt trừ được những “chướng” hay 'hoặc'
ấy là công việc chính của người tu hành. Nhưng muốn dứt trừ những tên giặc nguy
hiểm ấy, trước tiên phải tìm hiểu tướng trạng, hành tung, phạm vi hoạt động của
chúng như thế nào đã. Những chướng ngại, mê lầm hay những hoặc nói trên nhiều
vô số, nhưng có thể phân chia làm ba loại, từ cạn đến sâu, từ hẹp đến rộng.
Ðó là kiến-tư-hoặc, trần-sang-hoặc và vô-minh-hoặc.
1. - Kiến-tư-hoặc: Kiến-tư-hoặc
tức là danh-từ chỉ cho những kiến-hoặc và tư-hoặc. Kiến-hoặc là sự mê lầm
về lý, làm che-lấp trí-não của chúng ta, không cho thấy rõ được chơn-lý; tư-hoặc
tức là điều mê lầm về sự, nghĩa là những sự tham-nhiễm chấp-trước theo sự vật, hoàn-cảnh.
Vì hai thứ mê lầm về lý và sự này mà chung sanh phải sanh tử luân hồi, lăn lóc trong
ba cõi. Những mê lầm này thường được gọi là những mê lầm về giới-nội, nghĩa
là ràng buộc chúng sanh trong ba giới. Hàng Nhị-thừa chỉ mới khám phá ra loại
mê lầm này, ngoài ra không nhận ra được những mê lầm hay “hoặc” sâu xa hơn nữa.
Vì thế, khi họ tu-tập và dứt trừ được những “hoặc” này, thì họ cũng mới chỉ thoát
ra ngoài tam giới mà thôi.
2. - Trần-sa-hoặc
Trần-sa nghĩa đen là cát bụi. Trần-sa-hoặc là những hoặc nhiều không thể đếm
được, như cát bụi. Thật vậy, các pháp trong thế-gian và ngoài thế-gian đã
là vô hạn lượng, thì sự mê lầm cũng nhiều không thể lường được. Những kẻ tâm-lượng
hẹp hòi, và không tìm được nguyên-nhân của những “hoặc” ấy, nên hoảng sợ trước trần-sa-hoặc,
không dám phát lòng đại bi, cứu-độ chúng sanh. Chỉ riêng các bậc Bồ-tát mới
dứt trừ sự mê lầm ấy, nên trần-sa-hoặc cũng gọi là biệt-hoặc; và vì nó rộng lớn,
ra ngoài ba giới nên cũng gọi là giới-ngoại-hoặc.
3. – Vô-minh-hoặc:
Chữ vô minh nghĩa chung là mê lầm. Mê lầm cũng có nhiều bậc cạn và sâu, hẹp và rộng,
thô thiển và vi tế. Hàng Tiểu-thừa cũng dùng chữ vô minh, mà hàng Ðại-thừa cũng
dùng chữ vô minh. Nhưng vô minh theo quan niệm của Tiểu-thừa là sự mê lầm che lấp
không cho chúng sanh thấy được cái cội gốc của đau khổ, phiền não, nguyên nhân của
sanh tử luân hồi. Còn theo nghĩa của Ðại-thừa và đặc biệt của Thiên-thai tôn là
sự mê lầm che lấp chơn lý thật tướng của Trung đạo. Vô minh hoặc ở đây có một nghĩa
bao quát rộng rãi như thế, nên cũng gọi là giới ngoại đạo hoặc và chỉ có hàng Bồ-tát
mới dứt trừ được, nên cũng gọi là biệt-hoặc.
Ðối vị với ba hoặc này, Thiên-thai tôn lập ra ba pháp
quán là: Không-quán, Giả-quán và Trung-quán.
BA PHÁP QUÁN:
Ba pháp này nguyên Ngài Tuệ Văn rút từ những phẩm kệ trong bộ Trung luận của Ngài
Long Thọ Bồ tát mà lập ra. Phẩm kệ ấy như sau:
Nhân duyên sở sanh pháp
Ngã thuyết thức thị không
Diệc danh vi gỉa danh
Diệc thị trung đạo nghĩa.
(Các pháp do nhân duyên sanh, nên ta bảo là không,
mà cũng là giả danh, đó cũng là nghĩa lý của Trung đạo).
Ðối với Thiên thai tôn thì ba pháp quản này là phần
nòng cốt trong sự tu hành. Nếu không thực hành ba pháp quán này thì không làm sao
thành tựu được. Ba pháp quán này, như trên đã nói là Không quán, Giả quán và Trung
quán.
1.- Không quán: Không quán là đứng về phương diện chơn đế mà quan
sát sự vật. Theo chơn đế thì các pháp là không, nhưng chúng sanh vì mê lầm không
rõ, chấp là có thật. Do đó mà có kiến thức hoặc, và cứ mãi quay cuồng trong sanh
tử luân hồi của tam giới. Nay phải dùng Không quán mà phá trừ sự mê lầm chấp
trước trên, cắt đứt tất cả tình chấp (trừ kiến và tư hoặc) mới thoát khỏi sanh tử
luân hồi.
2.- Giả quán: Giả quán là đứng về phương diện tục đế mà quan sát
sự vật. Các pháp tuy không và không sở-đắc nhưng nếu đứng về thế tục mà nhìn, thì
thấy bản tánh vốn đủ các pháp, muôn hình vạn trạng, không thiếu một pháp nào. Giả
quán này có thể dứt trừ được trần sang hoặc, vì hành giả biết rằng hoặc tuy nhiều
như cát bụi, nhưng đều là giả cả, nên không lo sợ trước số nhiều ấy, và cứ tâm phát
nguyện độ sanh khắp tất cả.
3.- Trung quán: Trung quán là đứng về phương diện trung đế để quan
sát các pháp. Trung đế hay đệ nhất nghĩa đế là sự thật đúng đắn nhất, không gì hơn,
sự thật trung chánh, tóm thâu bao gồm tất cả sự thật khác. Khi đứng về chơn đế hay
tục đế mà quan sát sự vật thì không phải là không đạt đến sự thật; nhưng sự vật
ấy mới chỉ được vén lên ở một khía cạnh nay hay một khía cạnh khác mà thôi. Và những
sự thật ấy, nếu không có trung quán, thì trở thành mâu thuẩn, đối chọi nhau. Nhờ
Trung quán mà nhìn cùng một lần cả hai khía cạnh Có và Không, mới nhận chân được
rõ ràng các pháp không phải chơn mà cũng không phải tục, tức chơn, tức tục, dung
thông cả hai, không có chướng ngại. Pháp quán này sẽ trừ được vô minh hoặc một cách
rốt ráo, cùng tột.
Ba pháp quán này có tể thực hành bằng nhiều lối:
- Hoặc quán theo thứ lớp, hết Không đến Giả đến Trung.
Lối quán này gọi là quán ba đế về lối cách-lịch, thứ-đệ, hay về biệt-tướng, hay
biệt-giáo.
- Hoặc quán theo lối thông-tướng. Theo lối sau nay
thì quán một đế mà ba đế đều đủ, ba tức là một. Thí dụ: quán pháp Không thời hết
thảy đều Không; Giả, Trung cũng đều Không; quán pháp Giả, thời hết thảy đều Giả;
Không, Trung cũng đều Giả; quán pháp Trung, thời hết thảy đều Trung; Không; Giả
cũng đều Trung.
- Hoặc quán theo lối Viên dung; Viên nghĩa là đầy đủ,
Dung nghĩa là dung hòa. Theo pháp quán này, thì dùng một tâm mà đồng thời tu ba
pháp quán, nghĩa là trong một tâm niệm mà ba pháp quán đều đủ và không ngăn ngại
nhau. Quán như thế gọi là 'nhất tâm tam quán', một pháp quán của viên giáo. Nhất
tâm tam giáo là pháp quán vi diệu nhất. Nhờ pháp quán này mà hành giả trực
nhận được trong một lúc nhiều khía cạnh của tâm ( mà cũng tức là vạn pháp ), rõ
ràng như khi chúng ta soi vào gương, mà vừa nhận thấy được ánh sáng của gương (dụ
cho không), những bóng phản chiếu trong gương (dụ cho trung). Ba thứ: ánh sáng,
bóng phản chiếu và thể tánh của gương đều đầy đủ, đều thể hiện cùng một lúc mà vẫn
viên dung, không trở ngại nhau. Cái lý ba đế viên dung là đức tánh sẵn có trong
mười pháp giới, không một sự vật, một pháp gì, là không viên dung cả ba đế, cho
nên thông thường gọi là: “Một cảnh ba đế”.
Hành giả khi quán thuần thục, sẽ đi đến kết luận sau
đây:
Chân như, Tâm và Vật, quan hệ mật thiết như tánh ướt,
nước và sóng. Chân như dụ cho tánh ướt, Tâm dụ cho nước, Vật dụ cho sóng. Ngoài
tánh ướt không có nước; ngoài nước không có sóng. Ngoài chân như không có tâm, ngoài
tâm không có vật. Chân như, Tâm và Vật không rời nhau, mà cũng không phải là một,
mà cũng không khác.
IV. QUẢ VỊ TU CHỨNG
Như trên đã nói, do sự khám phá của 'Nhất tâm tam
quán', Thiên-thai tôn có một quan niệm lạc quan về sụ tu chứng. Thật vây, khi đã
nhận rõ chân-như nằm ngay trong sụ vật, phàm, thánh không hai, uế độ tức tịnh độ,
thì hành giả không cần phải cầu sanh ở một cảnh giới thanh tịnh nào khác mới tu
hành được, cũng không cần phải tu hành lâu đời, lâu kiếp mới thành Phật được. Ngay
trong hiện tiền, nếu hiểu rõ được nghĩa lý của Trung đạo và khởi công tu luyện thì
cũng là Phật rồi. Ấy là ý nghĩa của Thiên-thai tôn đã đề xướng trong chủ trương
'Lục tức Phật'.
1. Lục tức Phật, gồm có: Lý tức Phật, danh-tự tức Phật, quán-hạnh
tức Phật, tương-trợ tức Phật, phần-chứng tức Phật, cứu-kính tức Phật.
a) Lý tức Phật: Lý tức là nghĩa lý. Hiễu
rõ được nghĩa lý của Ðức-Phật đã dạy trong câu 'Chúng sanh vốn đủ Phật tánh, cùng
các đức Như Lai không hai không khác'; hay trong câu: 'Hết thảy chúng sanh đều
là Phật'; hiểu rõ được lý ấy tức là Phật.
b) Danh tự tức Phật: Danh tự ở đây tức là những
kinh điển, hay những lời thuyết pháp mà mình đã học hay đã nghe được, và đã hiểu
được thông suốt rằng: 'Hết thảy các pháp đều là Phật pháp'. Danh tự tức
Phật nghĩa là lãnh hội được lý tánh của vũ trụ, vạn hữu qua kinh điển, văn tự tức
là Phật.
c) Quán hạnh tức Phật: Quán hạnh là quán tưởng.
Hạnh là tu hành, hành động; nói một cach tổng quát: quán hạnh tức Phật nghĩa là
thực hành đúng theo lời Phật dạy tức là Phật.
d) Tương trợ tức Phật: Chữ tương trợ ở đây có nghĩa
là trong lúc mình tu hành, tuy chưa có thể thực chứng được lý tánh, nhưng tâm mình
đã được yên lặng, nơi lý đã mường tượng như tuồng đã chứng được, nên gọi là tương
trợ tức Phật. Ðến đây tức là Phật thập tín, thuộc về nội phàm (phàm phu trong
nội giáo).
e) Phần chứng tức Phật: Theo Thiên-thai tôn, thì
vô minh như là tấm màn dày đặc, gồm có 41 lớp; mỗi khi nhờ công phu tu hành, phá
được một lớp, tức là chứng được một phần Trung đạo. Ðó là ý nghĩa của phần chứng
tức Phật. Ðến nay tức là đã lên đến các bậc Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi
hướng, Thập địa và Ðẳng giác.
f) Cứu cánh tức Phật: Cứu cánh tức là đạt đến bực
cuối cùng, chứng được chỗ mầu nhiệm cực điểm, nghĩa là đến bực Diệu giác, Chủng
trí đều viên mãn. Ðến đây tức là đến bực Diệu giác hay Phật.
Chúng ta nên nhớ rằng 'Lục tứ Phật' này có phân biệt
Lý và Sự khác nhau. Về lý thì mới bắt đầu bước lên bực thứ nhất và vị đã đến từng
bực thứ sáu, đều bình đẳng như nhau, không hơn không kém, vì thể tánh vẫn là một
và mọi chúng sanh đều là Phật. Cái Lý này đem lại cho hành giả và sự phấn
khởi, trên đường tu hành, không sanh lòng chán nản, không buồn trách mình chậm thành
đạo quả mà thối tâm.
Nhưng về sự thì vị thứ cao thấp đều có trật tự, kẻ
mới tu hành và vị đã chứng quả Phật, không thể như nhau và ngang nhau được. Người
tu hành hiểu rõ như thế mới không sanh lòng tăng-thượng-mạn, tự xưng là Phật là
Thánh trên bước đường tu hành của mình.
Về Sự thì chỉ những vị đã đạt đến bực thứ sáu, tức
là bực Cứu-cánh, mới đúng danh nghĩa là Phật, vì chỉ có Phật mới có đủ ba Trí, ba
Ðức.
2. Ba trí: Ba trí tức là Nhất-thiết-trí, Ðạo-chủng-trí và Nhất-thiết-chủng-trí.
a) Nhất-thiết-trí:
Trí này rõ biết hết thảy các pháp đều không sanh; biết rõ danh, tướng các pháp của
nội tâm và ngoại cảnh, biết rõ không có ngã và ngã-sở. Trí này các bậc tu theo Tiểu-thừa,
sau khi đã chứng quả đều có được. Còn theo Thiên Thai tôn thì do tu Không quán mà
có được.
b) Ðạo-chủng-trí:
Trí này rõ biết nhất thiết pháp đều là Có, nhưng có một cách giả dối, do nhân duyên
hòa hợp mà thành. Cái trí ở trên (nhất thiết trí) chỉ thông suốt được các pháp không
sanh. Chứ không phân biệt được các pháp do duyên khởi. Vì không rõ được nguyên nhân
sanh-khởi các pháp như thế, nên không thể dùng đạo pháp của các Ðức-Phật để phát
khởi các giống lành cho hết thảy chúng sanh, và không dám phát nguyện rộng lớn cứu
độ chúng sanh. Vậy phải có Ðạo-chủng-trí này mới phá tan được trần-sa-hoặc, có tâm
dũng-mãnh để cứu độ chúng sanh. Trí này chỉ có các bậc Bồ Tát mới có được, và do
Giả-quán mà thành.
c) Nhất-thiết-chủng-trí:
Trí này rõ biết được hết thảy pháp đều là trung đạo, biết được đạo pháp của các
Ðức-Phật và hết thảy nhơn-chủng (chủng-tử khi tạo nhơn) của các loại chúng sanh,
phá tan được vô-minh hoặc, thông-suốt thật-tướng của các pháp. Trí này tức là trí
của Phật, do thành tựu Trung-quán mà có.
Chứng được ba trí trên này là nhờ tu ba pháp quán:
không, giả, trung. Vì ba pháp quán này có cách-lịch, viên-dung khác nhau, nên khi
chứng được ba trí cũng có thứ lớp và không thứ lớp khác nhau. Ba trí có thứ lớp,
nghĩa là thành-tựu tuần-tự từ Nhất-thiết-trí, đến Ðạo-chủng trí, cuối cùng đến Nhất-thiết-chủng
trí.
Ba trí không thứ lớp tức là ba trí đồng thời thành-tựu,
do tu pháp 'Nhất tâm viên quán'.
Ðoạn văn sau đây, trong bộ Ma-Ha-Chỉ quán có thể tóm
tắt một cách đầy đủ ý nghĩa của ba trí nói trên:
“Trí-huệ Phật soi rõ
lý Không, như chỗ nhận thấy của bực Tiểu-thừa, gọi là Nhất-thiết trí. Trí huệ Phật
soi rõ lý Giả, nhưng sự nhận thấy của các bực Bồ Tát, gọi là Ðạo-chủng trí. Trí-huệ
soi rõ cả lý Không, Giả, Trung, thông suốt thật tướng các pháp, gọi là Nhất-thiết-chủng
trí ... Ba trí do một tâm đồng thời tu ba pháp quán mà thành, biết rõ ba cảnh
bất-tư-nghị, trí ấy do tu quán mà đặng, nên gọi là trí. Trí ấy cũng tức là Phật-trí”.
3. Ba đức: Kết quả tu chứng của Thiên-thai tôn, không phải chỉ
có được ba Trí mà còn được ba Ðức nữa. Chữ 'Ðức' ở đây không phải hiểu theo nghĩa
thông-thường ở trên thế-gian, mà là Ðức của cảnh-giới Niết-bàn, nghĩa là có đầy
đủ thường, lạc, ngã, tịnh. Ba đức ấy là:
a) Ðức Pháp-thân:
Pháp tức là khuôn phép đúng với chơn-tướng của vũ-trụ. Các Ðức-Phật nhờ nương theo
khuôn phép ấy mà tu hành thành Phật, thể chứng được chơn-tướng vũ-trụ, cho nên gọi
là pháp-thân.
b) Ðức Bát-nhã:
Tức là cái sáng-suốt về thỉ-giác của Phật, rõ biết các Pháp không sanh không diệt,
vắng-lặng siêu-hình, một mực bình-đẳng, không thêm không bớt.
c) Ðức Giải-thoát:
Giải là không bị ràng buộc; Thoát và không vượt ra ngoài, là tự tại vô ngại.
Ở đây muốn nói các Ðức-Phật đã lìa bỏ các phiền-não nghiệp-chướng ràng buộc, chứng
được cảnh-giới đại tự-tại, Giải-thoát vậy.
V. KẾT LUẬN
Bốn phần trình bày trên này về Thiên-thai tôn (duyên
khởi lập tôn, tôn-chỉ và giáo-lý căn-bản, phương pháp tu hành, và quả vị tu chứng)
tuy không nói lên được một cách tỉ-mỉ về mọi khía cạnh của tôn, nhưng thiết tưởng
cũng đem lại cho quý vị độc giả một ý-niệm tổng-quát về Thiên-thai tôn, một tôn
đặc-biệt thành-lập ở Trung Hoa và đã lan tràn ảnh-hưởng sang các nước Mông-Cổ, Nhật-Bản,
Cao-Ly, Việt-Nam.
Ðiểm đặc-sắc của tôn này chính là ở pháp "nhất tâm
tam quán". Nhờ ba pháp quán này mà hành-giả nhận chân được một cách rõ ràng ba khía
cạnh của vũ-trụ vạn-hữu: Vật, Tâm, và Chân-như. Ba thứ ấy dụ cho sóng, nước và tánh
ướt, mà nước cũng là tánh ướt. Nếu góp cả ba phương-diện mà xét, thì ba phương-diện
có thể quy về một; nếu đứng về một phương-diện mà xét, thì vẫn có thể thấy cả ba.
Ðó là ý-nghĩa sâu sắc của Thiên-thai tôn mà cũng tức là lý-nghĩa chung của Viên-giáo.
Mong rằng quý độc-giả sẽ nghiền-ngẫm cho thấu đáo, để nhận rõ được cái lẽ 'tam
tức nhứt, nhức tức tam' ấy. Và như thế tức cũng đi dần vào pháp 'nhứt tâm tam
quán' rồi đó.
|