Khái Niệm Tổng Quát Về Tứ Diệu Ðế
LỜI NÓI ÐẦU Ðạo Phật truyền vào Việt-nam gần hai mươi thế-kỷ, cho nên phần đông dân số nước ta là tín-đồ Ðạo Phật. Người ta thường nói “Ðạo Phật là đạo ông bà”, hay “Nhà nào có đốt hương, đều là tín-đồ đạo Phật cả…” Kể về số lượng thì tín-đồ Phật-giáo ở Việt-nam thật là đông đảo. Nhưng xét về phần phẩm, chúng ta chưa có thể lạc-quan được. Tình-trạng phẩm ít, lượng nhiều ấy phát sinh vì nhiều nguyên-nhân phức-tạp: - Có người theo đạo Phật vì truyền-thống của ông cha (ông cha theo đạo Phật, nên con cháu cũng theo). - Có người theo đạo Phật vì cảm-tình đối với thân-bằng quyến-thuộc, hay đối với cái Ðạo đã chia-xẻ những phút vui buồn, thịnh suy của đất nước. - Có người theo đạo Phật, vì mong cầu được tai qua nạn khỏi, hay cầu của, cầu con v.v… Ngày nay, vẫn biết có một số tín-đồ đã hiểu đúng giá-trị cao-siêu và lợi-ích rộng-lớn của Ðạo Phật, nhưng cái số ấy không phải là đa-số, nếu đem so với cái khối tín-đồ hiểu Ðạo một cách nông-cạn, hay sai-lạc nói trên. Vì không hiểu thấu đáo Ðạo Phật, nên lòng tin không được chắc chắn. Mỗi khi gặp một lý-thuyết nào lạ, một tôn-giáo nào mới, thì họ ùa tin theo, như cây thiếu rễ cái, gió thổi phía nào thì ngã rạp theo phía ấy, thật đáng buồn thương. Tình-trạng buồn thương ấy có thể bổ cứu được, nếu chúng ta có một chương-trình dạy Phật-pháp bằng chữ Việt, Dân-tộc ta là người Việt, ở đất Việt, ăn cơm Việt, nói tiếng Việt, mà kinh sách toàn bằng chữ ngoại quốc; cả pho triết-lý cao-sâu của Ðạo Phật vẫn còn nằm nguyên trong 3 tạng chữ Tàu, thử hỏi có mấy ai đọc được? Như thế thì bảo tín-đồ làm sao hiểu biết giáo-lý cao-sâu của Ðạo Phật và lòng tin làm sao vững-chắc được? Nóng lòng vì tình-cảnh ấy, chúng tôi bạo-dạn và cố-gắng soạn ra chương-trình “Phật-học phổ-thông” này, mong giúp tín-đồ mau hiểu giáo-lý, thấy được chỗ quý-báu của Ðạo, để cho lòng tin được chơn chánh và vững bền. Chúng tôi tự biết đức bạc tài sơ, chưa đủ khả-năng làm việc vĩ-đại này. Nhưng nếu do-dự và nhún-nhường mãi, rồi suốt đời cũng chẳng làm được việc gì. Chi bằng cứ cố-gắng hy-sinh đắp trước con đường đất, để cho các bậc có tài đức sau này sửa-chữa lại, rồn cán đá và trán nhựa. Chương-trình “Phật-học phổ-thông” có mục-đích xây dựng cho tín-đồ có căn-bản giáo-lý, hiểu biết Phật-pháp từ thấp đến cao, lấy ngũ-thừa Phật-giáo làm nền-tảng. Từ khóa thứ nhất đến khóa thư tư, chúng tôi đã soạn hết Ngũ-thừa Phật-giáo. Khi tín-đồ đã hiểu giáo-lý căn-bản nói trên thì các khóa sau, chúng tôi sẽ mở thêm bề rộng và xây thêm bề cao của tòa nhà Phật-giáo. Từ khóa thứ V đến khóa thứ XII, tín-đồ sẽ tuần tự học về đại-cương kinh Lăng-Nghiêm, Viên-Giác, Kim-Cang, Tâm-Kinh và Duy-Thức Luận. Chương-trình này, chúng tôi đã soạn từ năm 1953 đến nay và đã xuất bản thành tập, từ tập Phật-học Phổ-thông thứ nhất cho đến thứ tám và đang tiếp-tục biên soạn khóa IX, X, XI, XII. Công việc trên đây là cả một gánh nặng, mà đường lại dài, chúng tôi khẩn-thiết yêu-cầu những vị nhiệt-tâm vì đạo, từ quý vị đại-đức Tăng-già cho đến các hàng Cư-sĩ, kẻ công người của tiếp sức với chúng tôi (hoặc giúp sáng-kiến, tài-liệu hay tài-chánh), cùng nhau xây dựng cho hoàn-bị một chương-trình Hoằng-pháp ở nước nhà, hầu bổ cứu những khuyết-điểm và dẹp bỏ những tình-tệ trong Ðạo Phật từ trước đến nay. Chúng tôi chấm dứt trong sự tin-tưởng ở lòng nhiệt-thành vì đạo của quý vị độc-giả xa gần. Khái-niệm tổng-quát về TỨ - DIỆU - ÐẾ (ARIYA SACCANI) A. MỞ-ÐỀ: NGUYÊN-NHÂN VÀ HOÀN-CẢNH ÐỨC PHẬT THÍCH-CA GIẢNG VỀ PHÁP TỨ-DIỆU-ÐẾ LẦN ÐẦU TIÊN Ðức Phật Thích-Ca, sau khi thành đạo dưới cội cây Bồ-đề, liền nghĩ đến việc đem giáo-lý mà Ngài vừa chứng được, ra truyền-bá cho chúng-sinh. Nhưng giáo-lý của Ngài là giáo-lý cao-siêu, thâm-diệu, còn chúng-sanh phần đông căn-cơ còn thấp kém, khó có thể giác-ngộ nhanh-chóng như Ngài được. Nhưng không lẽ vì giáo-pháp của Ngài thậm-thâm vi-diệu mà không giáo-hóa chúng-sinh? Ðể làm tròn nhiệm-vụ hóa-độ của Ngài, Phật phương-tiện nói pháp Tứ-diệu-đế là Tiệm-giáo để cho chúng-sinh dễ bề tu-hành. Quán-sát căn-cơ năm người bạn đồng tu với Ngài trước kia, là nhóm ông Kiều-Trần-Như, có thể khai-ngộ được với pháp Tứ-diệu-đế, đức Phật đi đến Lộc-Uyển là nơi họ đang tu-hành để nói pháp Tứ-diệu-đế. Sau khi nghe Phật thuyết-pháp Tứ-diệu-đế, thành-kiến mê-lầm tan vỡ, trí-huệ siêu thoát xuất-hiện, năm vị này được ngộ đạo, chứng nhập quả-vị A-La-Hán. Ðó là năm vị đệ-tử đầu tiên của đức Phật Thích-Ca. Từ đây về sau, Tứ-diệu-đế là giáo-lý căn-bản về Tiệm-giáo (phương-pháp tu chứng từ từ) và đã giác-ngộ cho không biết bao nhiêu đệ-tử của Phật. Ngày nay, chúng tôi đem giáo-pháp Tứ-diệu-đế ra trình-bày với quí vị độc-giả trong tập sách này, cũng không ngoài mục-đích ấy. B. CHÁNH-ÐỀ: I. ÐỊNH-NGHĨA VỀ TỨ-DIỆU-ÐẾ Tứ là bốn; Diệu là hay, đẹp, quý-báu, hoàn-toàn; Ðế là sự-thật chắc-chắn, rõ-ràng đúng-đắn nhất. Chữ Phạn là Ariya Saccani. Tứ-diệu-đế là bốn sự thật chắc-chắn, quý-báu, hoàn-toàn nhất, không có một giáo-lý ngoại-đạo nào có thể sánh kịp. Với bốn Sự-Thật mà đức Phật đã phát-huy này, người tu-hành có thể từ địa-vị tối-tăm, mê-mờ, đi lần đến quả-vị giác-ngộ một cách chắc thật, không sai chạy, như một ngọn đuốc thiêng có thể soi đường cho người bộ-hành đi trong đêm tối đến đích. Vì cái công-dụng quý-báu, mầu-nhiệm, vô cùng lợi-ích như thế nên mới gọi là Diệu. Chữ Ðế còn có nghĩa là một Sự-Thật lớn nhất, cao nhất, bao trùm tất cả các Sự-Thật khác, và muôn đời bất di dịch, chứ không phải là sự-thật hạn cuộc trong không-gian và thời-gian. Trong giáo-lý Tiểu-thừa thì Tứ-diệu-đế là giáo-lý căn-bản. II. TỨ-DIỆU-ÐẾ GỒM NHỮNG GÌ? Tứ-diệu-đế là: Khổ-đế, Tập-đế, Diệt-đế và Ðạo-đế. 1. Khổ-đế (Dukkha). Khổ-đế là chân-lý chắc-thật, trình bày rõ-ràng cho chúng ta thấy tất cả những nỗi khổ-đau trên thế-gian này mà mỗi chúng-sinh đều phải chịu, như sống là khổ, đau là khổ, già là khổ, chết là khổ v.v… Những nỗi khổ dẫy-đầy trên thế-gian, bao vây chúng ta, chìm đắm chúng ta như nước biển. Do đó, đức Phật thường ví cõi đời là một bể khổ mênh-mông. 2. Tập-đế (Sameda Dukkha). Tập-đế là chân-lý chắc thật, trình-bày nguyên-nhân của bể khổ trần-gian, là lý-do vì đâu có những nỗi khổ ấy. Khổ-đế như là bản kê hiện-trạng của chứng bệnh; còn Tập-đế như là bản nói rõ nguyên-nhân của chứng bệnh, lý-do vì sao có bệnh. 3. Diệt-đế (Nirodha Dukkha) Diệt-đế là chân-lý chắc thật, trình-bày rõ-ràng hoàn-cảnh, quả-vị an lành, tốt-đẹp mà chúng-sinh sẽ đạt đến khi đã diệt-trừ được những nỗi khổ và những nguyên-nhân của đau-khổ. Diệt-đế như là một bản cam-đoan của lương-y nói rõ sau khi người bệnh lành thì sẽ ăn ngon, ngủ yên như thế nào, thân-thể sẽ tráng-kiện, tâm-hồn khoan-khoái như thế nào. 4. Ðạo-đế (Nirodha Gamadukkha). Ðạo-đế là những phương-pháp đúng-đắn, chắc thật để diệt-trừ đau-khổ. Ðó là chân-lý chỉ rõ con đường quyết-định đi đến cảnh-giới Niết-bàn. Nói một cách giản-dị, đó là những phương-pháp tu-hành để diệt khổ và được vui. Ðạo-đế cũng như cái toa thuốc mà vị lương-y đã kê ra để người bịnh mua và những lời chỉ-dẫn mà bịnh-nhân cần phải y theo để lành bệnh. III. BỐ-CỤC KỲ-DIỆU CỦA TỨ-DIỆU-ÐẾ Tứ-diệu-đế đã được Ðức Phật sắp-đặt theo một thứ tự rất khôn-khéo, hợp lý, hợp tình. Ngày nay các nhà nghiên cứu Phật-học Âu Tây, mỗi khi nói đến Tứ-diệu-đế, ngoài cái nghĩa-lý sâu-xa, nhận-xét xác-đáng, còn tấm-tắc tán-thán cái kiến-trúc, cái bố-cục, cái thứ-lớp của toàn bộ pháp-môn ấy. Trước tiên, đức Phật chỉ cho chúng-sanh thấy cái thảm cảnh hiện-tại của cõi đời. Cái thảm-cảnh bi-đát nầy nó nằm ngay trước mắt ta, bên tai ta, ngay trong chính mỗi chúng ta; những sự-thật có thể thấy, nghe, ngửi, nếm, rờ được, chứ không phải những sự-thật xa-lạ ở đâu đâu. Ðã là một chúng-sinh, ai không có sanh, ai không đau-ốm, ai không già, ai không chết v.v…? Và những trạng-thái ấy đều mang theo tánh-chất khổ cả. Ðã có thân, tất phải khổ. Ðó là một chân-lý rõ-ràng, giản-dị, không ai là không nhận thấy, nếu có một chút ít nhận-xét. Khi chỉ cho mọi người thấy cái khổ ở trước mắt, ở chung-quanh và chính trong mỗi chúng ta rồi, đức Phật mới đi qua giai-đoạn thứ hai, là chỉ cho chúng-sanh thấy nguồn-gốc, lý-do của những nỗi khổ ấy. Ngài đã từ hiện-tại đi dần về quá-khứ, đã từ bề mặt đi dần xuống bề sâu, đã từ cái dễ thấy đến cái khó thấy. Như thế là lý-luận của Ngài đã đặt căn-bản lên thực-tại, lên những điều có thể chứng-nghiệm được, chứ không phải xa-lạ, viễn-vông, mơ-hồ. Ðến giai-đoạn thứ ba, đức Phật nêu lên, trình-bày cho chúng ta thấy cái vui-thú của sự hết khổ. Giai-đoạn nầy tương phải với giai-đoạn thứ nhất: giai-đoạn trên khổ-sở như thế nào, thì giai-đoạn nầy lại vui-thú như thế ấy. Cảnh giới vui-thú mà Ngài trình-bày cho chúng ta thấy ở đây, cũng không có gì là mơ-hồ, viễn-vông; vì nếu đã có cái khổ, thì tất-nhiên phải có cái trái lại với cái khổ là cái vui. Và khi đã thấy rõ được cái khổ như thế nào, thì mới hăng-hái tìm cách để thoát khổ và khao-khát hướng đến cái vui mà đức Phật đã giới-thiệu. Ðến giai-đoạn thứ tư là giai-đoạn Phật dạy những phương-pháp để thực-hiện cái vui ấy. Ở đây chúng ta nên chú-ý là đức Phật trình-bày cảnh-giới giải-thoát trước, rồi mới chỉ bày phương-pháp tu-hành sau. Ðó là một lối trình-bày rất khôn-khéo, đúng tâm-lý: trước khi bảo người ta đi, thì phải cho người ta biết rõ đi đâu đã chứ, phải nêu mục-đích sẽ đến như thế nào, rồi để người ta suy-xét, lựa-chọn có nên đi hay không. Nếu người ta nhận thấy mục-đích ấy cao-quý, đẹp-đẽ, khi ấy người ta mới hăng-hái, nổ-lực không quản khó-nhọc, để thực-hiện cho được mục-đích ấy. Như thế, chúng ta có thể phác-họa lại cái bố-cục của bức họa Tứ-diệu-đế như sau: Chúng ta đang đứng trước một bức họa vĩ-đại gồm có hai phần chính: Phần dưới là một bể thẳm mênh-mông, sóng gió tơi-bời, trong ấy thuyền bè đang bị đắm-chìm, với vô-số nạn-nhân đang lặn-hụp, kêu-la, khóc-lóc, chới với…(Khổ-đế). Trong cái phần của bức tranh, ta cũng thấy được những nguyên-nhân gây ra những thảm-họa ấy: đó là những luồng gió dục-vọng, tham, sân, si…, những đám mây vô-minh đen nghịt, che khuất cả mặt trời (Tập-đế). Nhìn đến phần trên của bức họa, ta thấy quang-cảnh dần dần sáng-sủa, yên-tĩnh; ở đây, giông-tố không đến được, không có những vực sâu, hố hiểm, không có những nạn-nhân đang rên-siết, khóc than… Ðây là một miền cao-nguyên, càng lên cao, cảnh-trí càng đẹp-đẽ, yên-vui. Người ở đây trông có vẻ bình-tĩnh, thảnh-thơi, vui-vẻ lắm; và cũng như cảnh-trí, những người càng ở tầng bậc cao thì lại càng có dung-mạo đẹp-đẽ, cốt-cách phương-phi, giải-thoát… (Diệt đế). Trong phần nầy, nếu chúng ta chú-ý nhìn rõ, thì thấy từ một cảnh ở dưới lên một cảnh trên, có những con đường đi với những cái bảng để tên đường đi rất hay như: Tứ-niệm-xứ, Tứ-chánh-cần, Tứ-như-ý-túc, Bát-chánh-đạo v.v… Trên những con đường ấy, có rất nhiều người đang đi lên, và rất ít người đi xuống. Và càng lên cao thì con đường lại càng rộng-rãi, mát-mẻ, tốt đẹp và những khách bộ-hành lại càng mang rất ít hành lý… (Ðạo đế). Bức họa ấy có ghi mấy chữ ở phần dưới là : “Thế-gian” và phần trên là “Xuất-thế-gian”. Ðây, bức họa Tứ-diệu-đế rõ-ràng trình-bày ra trước mắt chúng ta hai cảnh-giới: Thế-gian và Xuất-thế-gian tương phản như thế đó. Những ai đã nhìn được bức họa ấy, tất đều có một thái-độ là muốn xa-lánh cảnh ở phần dưới và mong-ước được sống trong cảnh-giới trình-bày ở phần trên bức họa. IV. ÐỊA-VỊ QUAN-TRỌNG CỦA TỨ-DIỆU-ÐẾ TRONG TOÀN BỘ GIÁO-LÝ CỦA ÐỨC PHẬT THÍCH-CA Tứ-diệu-đế là giáo-lý căn-bản của đạo Phật, không phải riêng đối với Tiểu-thừa mà chung cho cả Ðại-thừa nữa. Người tu-hành muốn có một kết-quả chắc-chắn, không thể bỏ qua Tứ-diệu-đế được. Pháp-môn nầy, tuy tiến chậm, nhưng khi tiến được bước nào là chắ bước nấy. Pháp-môn nầy tuy không đưa thẳng người tu-hành đến quả-vị Phật, nhưng với một sự tinh-tấn và quyết tâm, nó có thể dễ-dàng đưa người tu-hành đến quả-vị A-la-hán. Rồi từ quả-vị A-la-hán, hành-giả sẽ tu theo một pháp-môn khác của Ðại-thừa, để tiến đến quả-vị Phật. Căn-cơ nào, trình-độ nào cũng có thể tu theo pháp-môn nầy được, chứ không phải như một số pháp-môn khác, phải cần có một trình-độ học-thức cao và một trí-tuệ trên mức trung-bình, mới có thể theo được. Vì thế, nó là một pháp-môn phổ-thông cho cả hai phái Tiểu-thừa lẫn Ðại-thừa, Nam-tông và Bắc-tông. Ngày nay pháp-môn này là pháp-môn được phổ-biến nhất trên thế-giới. Các Phật-tử Âu-Mỹ hầu hết đều tu theo pháp-môn nầy và những tập sách nghiên-cứu về đạo Phật, của những nhà Phật-học Tây-phương, đều nói nhiều nhất về Tứ-diệu-đế. C. KẾT-LUẬN: PHẬT-TỬ PHẢI HỌC VÀ THỰC-HÀNH PHÁP TỨ-DIỆU-ÐẾ Một giáo-lý căn-bản, quan-trọng như Tứ-diệu-đế, người Phật-tử không thể không hiểu biết được. Không hiểu biết về Tứ-diệu-đế là không hiểu biết gì về giáo-lý đạo Phật cả. Người Phật-tử, hơn ai cả, phải thấu-triệt cõi đời là khổ. Muốn thế, không gì hơn là hãy lắng nghe đức Phật dạy về Khổ-đế, vì chỉ có Khổ-đế mới nói lên một cách tường-tận, đầy-đủ, chính-xác về mọi nỗi khổ-đau của cõi đời. Thấy rõ được mọi khổ đau rồi, ta cần tìm-hiểu vì đâu có khổ, nguyên-nhân của khổ là đâu. Vì chỉ khi nhận thấy được nguồn-gốc của nó, mới có thể diệt-trừ tận gốc nó được. Ðiều nầy, cũng không chỗ nào nói rõ-ràng, phân-tích rành-mạch bằng Tập-đế. Nhưng thấy được mọi khổ-đau của cõi đời và nguồn-gốc của nó, không phải để mà chán-ngán, khóc-lóc, rên-xiết. Nếu thế thì không có gì tiêu-cực và bi-quan bằng. Một số dư-luận tưởng lầm đạo Phật là yếm-thế, bi-quan là vì họ đã dừng lại ở hai phần đầu của Tứ-diệu-đế. Nhưng người Phật-tử không dừng lại đó. Ðã thấy đau-khổ làm cho cuộc đời xấu-xa, đen-tối, khổ-đau, thì phải diệt-trừ đau-khổ. Hạnh-phúc không đâu xa; hạnh phúc hiện ra sau khi đã diệt-trừ được đau-khổ. Ðau-khổ lùi chừng nào thì hạnh-phúc đến chừng ấy, như bóng tối tan đi đến đâu thì ánh-sáng thay vào đến đó. Muốn thấy ánh-sáng của Niết-bàn thì phải thực-hiện những lời dạy của Phật trong Diệt-đế. Muốn thực-hiện Niết-bàn thì phải có đủ phương-tiện. Những phương-tiện nầy, đức Phật đã cung-cấp một cách đầy-đủ trong Ðạo-đế. Như thế, đức Phật Thích-Ca đã làm đầy-đủ nhiệm-vụ của kẻ dẫn đường cho chúng ta đi từ cõi đời đen-tối đến quả-vị A-la-hán. Ngài đã đặt vào tay chúng ta một bản-đồ chỉ dẫn rõ-ràng về cuộc hành-trình và bang cho chúng ta đầy-đủ phương-tiện cần-thiết trong chuyến đi vĩ-đại ấy. Chúng ta chỉ còn lên đường và bước tới. |