Tu Viện Kim Cang |
|
c |
|
(Tụng NGHI THỨC KHAI KINH trang 357 trước khi tụng 48 lời nguyện.) BỐN MƯƠI TÁM LỜI NGUYỆN của ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ Nguyện thứ nhứt: tôi thành Phật được,Thì nước tôi là nước tịnh-thanh, Ngục-hình, Ngạ-quỉ, Súc-sinh, Thảy đều chẳng có sanh thành nơi đây. Nguyện thứ hai: nước nầy tịnh giới, Đàn bà cùng con gái tịch nhiên, Những người trong cõi Nhơn, Thiên, Cùng loài cầm-thú cần chuyên tu hành, Thảy đều đặng hóa sinh thọ-cảm, Thất-bảo-trì, Cửu-phẩm liên-hoa. Nguyện thứ ba: dân-chúng Phật-đà, Khi cần ăn uống, hóa ra sẵn sàng. Bát thất-bảo, bỉ bàng đựng lắm, Trăm món ngon, khỏi sắm ở đâu, Ăn rồi, khí dụng liền thâu, Không cần phải rửa, phải lau nhọc nhằn. Nguyện thứ tư: nhơn-dân trong nước, Muốn áo quần, khăn, lược, mão, giày, Thảy đều hóa đủ sẵn bày, Khỏi mua, khỏi giặt, khỏi may cực lòng. Nguyện thứ năm: giáp vòng địa-lợi, Từ đất bằng lên tới hư-không, Thảy đều lầu-các, điện, cung, Cùng là cây trái, ao, sông, cửa nhà. Các thứ ấy đều là trân-bảo, Cùng bá thiên hoa báu, hương thơm. Hiệp nhau thành tạo kết đơm, Trau giồi trang sức, cho làm phiền-ba, Mùi hương ấy xông ra khắp đủ, Cả mười phương hưởng thụ cấp kỳ. Chúng-sinh hạnh nguyện, chuyên trì, Tin và tưởng Phật, đến thì vãng-sinh. Nguyện thứ sáu: dân lành quốc-độ, Thương kính nhau, ví tợ ruột rà, Không lời qua lại bất hòa, Không ganh không ghét, sinh ra tranh-giành. Nguyện thứ bảy: dân-sinh trong nước, Không có lòng uế-trược, dâm-ô, Cũng không có tánh tục thô, Cùng là nóng giận hồ-đồ ngu-si. Nguyện thứ tám: chuyên trì thiện-niệm, Cứ đường ngay tiệm tiệm lướt đi, Nếu ai muốn nói chuyện gì, Người kia hiểu ý tức thì khỏi phân. Nguyện thứ chín: chúng dân từ thiện, Tai chẳng nghe những chuyện không lành, Có đâu sự ác tự hành, Mấy điều nghiệp-chướng đã thành vô-danh. Nguyện thứ mười: chúng-sinh đều ví, Huyễn thân là mộng mỵ mà thôi, Vậy nên lòng chẳng nhiễm đời, Tánh không tham muốn, khắp nơi vui cười. Nguyện mười một: Tiên, người tuy khác, Hình-dung đồng một sắc vàng y, Mặt mày nghiêm-chỉnh phương-phi, Trong ngần đẹp-đẽ, không chi ví bằng. Nguyện mười hai: Mười phương thế giới, Thiên, Nhơn cùng các loại Súc-sinh, Hóa thân về cõi Lạc-thành, Chứng ngôi Duyên-giác Thinh-văn trùng trùng. Ngồi thiền-tọa, tấm lòng tịch tịnh, Hiệp cùng nhau tính tuổi ít nhiều, Chẳng hề biết đặng bao nhiêu. Ngàn, muôn, ức kiếp số nhiều khó phân. Nguyện mười ba: Thiên, Nhơn trên giải, Hiệp cùng nhau đếm mãi dân cư, Không hề rõ biết số dư, Tại An-dưỡng-quốc nhiều như cát Hằng. Nguyện mười bốn: dân trong quốc-độ, Thảy thảy đồng trường thọ miên miên. Không sao biết đặng số niên, Sống lâu vô-lượng, vô-biên Kiếp đời. Nguyện mười lăm: dân thời thanh-tịnh, Trụ vào nơi thực tánh trạm nhiên, Ly chư loạn-tưởng đảo-điên, Đắc vô phân biệt, mãn viên Niết-bàn. Nguyện mười sáu: Lạc-ban dân chúng, Vui-vẻ mà thọ dụng đủ đều, Thảy đồng với các Tỳ-kheo, Chứng phần "Vô-lậu" hết theo sự đời. Nguyện mười bảy: Khi tôi thành Phật, Sẽ giảng Kinh, thuyết Thật độ sinh. Làm cho sở-nguyện đắc thành, Công tôi giảng đạo trọn lành hơn ai. Nguyện mười tám: hóa thai khỏi dục, Người người đều đắc "Túc-mạng-thông". Rõ điều tiền kiếp xa trông, Hằng-hà sa số như đồng kim sinh. Nguyện mười chín: chúng-sinh ức vạn, Đắc thần thông "thiên-nhãn tịnh-quang". Thấy toàn vũ-trụ mười phương, Trùng trùng duyên khởi thế-gian tỏ trường. Nguyện hai mươi: Tây phương dân chúng, "Thiên-nhĩ-thông", đắc dụng nghe xa, Những lời thuyết-pháp bủa ra Của trăm ngàn ức Phật-đà khẩu tuyên. Nguyện hăm mốt: Nhơn, Thiên trong nước, "Tha-tâm-thông" biết được chẳng sai, Những điều tâm niệm mỗi loài, Thập phương thế-giới không ngoài tánh linh. Nguyện hăm hai: chúng-sinh quốc độ, "Thần-túc-thông" đắc ngộ dong chơi, Bao hàm thế-giới nơi nơi, Vượt qua một mạch, mau thời hơn bay. Nguyện hăm ba: khi tôi thành Phật, Danh hiệu tôi vang dội mười phương. Phật và đại-chúng tán dương, Còn dân trong nước lai vương(1) tôi hoài. Thiên, Nhơn với các loài thú-vật, Niệm danh tôi cho thật chí thành, Sinh lòng vui-vẻ, hiền lành, Lâm chung sẽ đặng hóa sinh sen vàng. Nguyện hăm bốn: ánh quang-minh chiếu, Nơi đầu tôi, tuyệt diệu rỡ ràng, Mặt trời cùng ánh mặt trăng, Tuy là sáng tỏ chẳng bằng Phật-quang, Nguyện hăm lăm: hào-quang tôi chói, Khắp cùng nơi chỗ tối khúc quanh, Thiên, Nhơn cùng các Súc-sinh; Thấy liền đặng khởi lòng thành quy-y. Nguyện hăm sáu: bất kỳ nhơn, thú, Trong thập phương vũ-trụ vân vân, Nhờ hào-quang chiếu đến thân, Từ hòa tâm tánh hơn dân cõi Trời. Nguyện hăm bảy: Tiên Người phát ý, Tâm Bồ-đề, trì chí giới trai, Lục Ba-la-mật quảng khai, Làm nhiều công-đức, chẳng sai một thì,. Khi thọ mạng tới kỳ viên mãn, Có tôi và các hạng Tăng lành, Phóng quang tiếp dẫn vãng-sinh, Đặng làm Bồ-tát tại thành Lạc-ban. Nguyện hăm tám: Thiên, Nhơn vũ-trụ. Nghe danh tôi sắm đủ bỉ-bàng, Hương, hoa, đăng, chúc huy-hoàng, Tràng-phan, bảo-cái cúng dường Như-lai, Tạo tháp-tự, trì trai, thanh-tịnh, Làm việc lành tâm-định tưởng tôi, Tưởng luôn trọn một ngày thôi, Chắc là sẽ đặng Nước tôi về liền. Nguyện hăm chín: Nhơn, Thiên mười cõi Nếu dốc lòng ra khỏi bến mê, Hiệu tôi mười-niệm chuyên bề, Lâm chung sẽ đặng sinh về Lạc bang. Trừ những kẻ hung tàn hổn-tạp, Cùng những người Phật Pháp dễ khinh, Ai mang tội ấy vào mình, A-tỳ Địa-ngục thọ hình chung thân. Nguyện ba mươi: Thiên, Nhơn, cầm, thú, Trong Thập-phương vũ-trụ khôn lường, Trước đã tạo tội thường thường, Sau nghe danh Phật, tỏ tường cung khai, Cầu sám-hối, trì trai, giới sát, Nguyện làm lành, nước Phật mong sinh, Lâm chung sẽ đặng công lành, Khỏi Tam đồ khổ, hóa sinh liên đài. Nguyện băm mốt: Tiên, Người mười cảnh Nghe danh tôi, lễ đảnh theo về, Vui mà tu hạnh Bồ đề, Người người cung kính, một bề tán dương. Nguyện băm hai: Thập phương thế giới, Những đàn bà con gái chán đời, Phát tâm tín niệm danh tôi, Thân sau tránh khỏi phục hồi nữ nhơn. Nguyện băm ba: chúng dân mới tới, Quả vô-sinh bất thối chứng liền. Lại thêm quả Phật siêu nhiên, Ngoại trừ những vị bổn nguyền độ sinh, Tôi sẽ giúp cho thành sở mộ, Tới tha phương tế độ hàm linh. Hạnh tu Bồ tát rất tinh. Lại còn lấy sức oai linh hộ truyền , Cho người ấy tinh chuyên tấn bộ, Cùng chúng sinh tín thọ pháp huyền, "Bồ đề", "Tịch diệt" , "Phổ hiền ", Tấn thêm "Tối thắng", cần chuyên thi hành. Nguyện băm bốn: Dân lành trong nước, Độ chúng sinh, dùng đủ mọi phương, Ước nguyền sẽ đặng như lòng, Bao nhiêu nghiệp ác,ba đường khỏi mang. Nguyện băm lăm: các hàng Bồ tát, Muốn cúng dường chư phật đâu đâu, Hoa hương, anh lạc, trân châu, Liền đi khắp đủ, vừa hầu bữa ăn. Nguyện băm sáu: muôn ngàn báu vật, Muốn cúng dường chư phật,Thánh, Hiền, Ước ra thì có đủ liền, Cúng dâng khắp cả về miền chưa trưa. Nguyện băm bảy: ai vừa đọc tụng, Hoặc thọ trì, phụng cúng chư Kinh, Đặng tài biện luận thông minh, Lại thêm Bát nhã,trí lành cao siêu. Nguyện băm tám: giảng điều pháp lý, Đủ viên thông, đầy trí tuệ tâm, Nghĩa kinh cùng với Pháp âm, Dầu rằng vi-diệu cao-thâm đều cùng. Nguyện băm chín: quốc trung Bồ tát, Thảy thảy đồng dõng bạt kiên cần. Mỗi người đều đặng kim thân, Băm hai tướng tốt, mười phân sắc mầu, Thuyết các pháp gồm thâu đạo Phật, Cũng in như chư Phật đương thời. Bốn mươi nguyện: nước của tôi, Hoàn toàn tinh sạch, chiếu soi một màu, Chư Bồ tát ví như muốn thấy, Cõi Phật nào là thấy chẳng ngoa, Dòm trong "bảo thọ" hiện ra, Cảnh nào Phật nấy như là soi gương. Nguyện bốn mốt: mọi đường công đức, Bồ tát nào chưa được hoàn toàn, Đặng nghe, đặng thấy "Đạo tràng", Bề cao cho đến bốn ngàn Na-do(1). Nguyện bốn hai: các đồ nhựt dụng, Quốc độ tôi thiệt đúng tinh minh. Chói ngời hình sắc đẹp xinh, Dầu thiên nhãn chẳng nhìn hình đặng đâu. Nguyện bốn ba: ai ai trong nước, Chí mong cầu nghe được Pháp Kinh, Tự nhiên sở nguyện đắc thành ,Không chờ mời thỉnh, thường tình thế-gian. Nguyện bốn bốn : Thanh-văn, Duyên-giác,Trong nước tôi đều đắc oai thần, Hào-quang tỏ rạng vô ngần, Biện tài thuyết-pháp ngang phần Pháp-vương(2). (1) Na do tha: Chữ Phạn, số lớn bên Ấn Độ, số nầy hoặc bằng muôn ức, hoặc bằng ngàn vạn. (2) Pháp Vương: Phật. Đây là một trong mười hiệu của Phật: Như Lai, Ứng cúng, v.v... ) Nguyện bốn lăm: tha-phương Bồ-tát, Nghe danh tôi, tấn phát phụng hành, Thảy đều đặng phép "Tịnh-thanh", Định-thần, giải-thoát, phước lành thưởng ban, Như ai muốn cúng dường Phật, Pháp, Trong một giờ đi khắp Hà-sa, Tuy là đường sá rất xa, Định thần không lạc, Thiền na chẳng lìa. Nguyện bốn sáu: Chư tôn Bồ-tát, Ở tha-phương nghe đạt Danh tôi, Quy-y Tinh-tấn vừa rồi, "Định-thiền bình-đẳng" phục hồi bổn nguyên. Đắc Pháp-nhẫn lên ngôi Chánh-giác, Đặng thấy thường các bậc Như-Lai. Lời nguyện bốn bảy: như vầy Tha-phương Bồ-tát về đầy nước tôi, Hướng Đạo cả tâm hồi bất nhị Chẳng thối lui địa-vị cao sâu. Lời nguyện bốn tám: báu mầu, Tha-phương Bồ-tát khấu đầu quy-y, Chư vị ấy đắc kỳ sở nguyện, Nhứt, nhị, tam "Nhẫn-thiện" Pháp-vương, Pháp môn của Phật khôn lường. Thập phương vững trụ dẫn đường chúng-sinh, Khi Pháp-Tạng nguyện xong bốn tám, Cõi Tam-thiên, sáu món rung rinh, Hương hoa đổ xuống đầy thành, Hư không phát tiếng "Chắc thành Như-lai". NIỆM PHẬT Tâm Phật thanh tịnh tợ lưu ly. Trí Phật sáng ngời như trăng sáng. Phật ở thế gian thường cứu khổ. Tâm Phật không đâu không từ bi. Nam mô Đại Từ, Đại Bi A Di Đà Phật. Nam mô A Di Đà Phật. (30 lần) Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần)Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát. (3 lần)Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát. (3 lần)Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (Kế tiếp tụng NGHI THỨC KẾT trang 503, trước khi kết thúc thời kinh.) |