BÀI
THỨ CHÍN
NÓI
VỀ BỐN MÓN HUÂN-TẬP (tiếp theo và hết)
CHÁNH VĂN
Nói về chơn-như (pháp thanh-tịnh) huân-tập.
Chơn-như huân-tập vô-minh, có hai phần:
1.
Thể-tướng chơn-như huân-tập.
2.
Diệu-dụng chơn-như huân-tập.
Nói về thể-tướng chơn-như huân-tập vô-minh:
Tất cả chúng-sanh từ vô-thỉ đến nay, đều sẵn có bản-thể chơn-như (tánh Phật) và
có đủ các công-dụng (diệu-dụng chơn-như), không thể nghĩ bàn, sanh ra các cảnh-giới.
Do thể-tướng và công-dụng của chơn-như (tánh Phật) thường huân-tập vô-minh, nó thúc-đẩy
chúng-sanh chán khổ sanh-tử, cầu vui Niết-bàn, và tự tin mình có sẵn chơn-như (tánh
Phật) nên tự phát tâm tu-hành để thành Phật.
LƯỢC GIẢI
Trong kinh chép: “Tất cả chúng-sanh đều có tánh Phật” (khả năng thành Phật).
Tánh Phật này, cũng gọi là chơn-như. Pháp-tánh hay Chánh-chơn Phật-tánh v.v…
Nhờ sẵn có tánh Phật (giống Phật) nên chúng-sanh tu-hành mới được thành Phật.
Tánh Phật này thanh-tịnh vô-lậu, và có diệu-dụng không thể nghĩ bàn. Nó thường
huân-tập vô-minh, làm cho chúng-sanh tự tin mình có khả-năng thành Phật, nên phát
tâm tu-hành, chán khổ sanh-tử cầu vui Niết-bàn. Nếu không nhờ tánh Phật này
thúc dục, thì chúng-sanh không biết chừng nào mới phát tâm tu-hành, cầu quả giải-thoát.
CHÁNH VĂN
Hỏi: Nếu tất cả chúng-sanh đều sẵn có Chơn-như (tánh Phật) và đồng huân-tập
vô-minh thì tất cả chúng-sanh phải đồng thời tự tin mình có Chơn-như (tánh Phật),
đồng thời phát tâm tu các pháp lành và đồng thời chứng quả Niết-bàn; tại sao có
vô cùng sai khác: kẻ tin người không, kẻ tu trước, người tu sau, có kẻ đã nhập Niết-bàn,
còn người chưa nhập?
LƯỢC GIẢI
Do trước nói: “Tất cả chúng-sanh đều sẵn có tánh Phật và nhờ tánh Phật này
huân-tập vô-minh, nên làm cho chúng-sanh nhàm cảnh khổ sanh-tử, ưa vui Niết-bàn
v.v…” nên mới có câu hỏi này. Trong câu hỏi này có hai điều nghi:
-
Ðiều nghi thứ nhứt: Chúng-sanh sẵn có tánh chơn-như, bình-đẳng như nhau, tại
sao lại có vô số những sự sai khác, không bình-đẳng, như kẻ đần độn, người thông-minh,
kẻ chánh người tà, kẻ tin người không v.v…
-
Ðiều nghi thứ hai: Chúng-sanh đã đồng nhờ Chơn-như huân-tập vào vô-minh, nên
phát tâm tu-hành v.v… Vậy thì phải đồng thời phát tâm, đồng thời tự tin mình
có tánh Phật và đồng thời tu, đồng thời chứng v.v…, tại sao có vô cùng những sự
sai khác, không bình-đẳng, như kẻ tu trước người tu sau, kẻ mau ngộ đạo, người chậm
chạp v.v…
CHÁNH VĂN
Ðáp: Từ hồi nào đến giờ, Chơn-như vẫn một; song vô-minh có vô-lượng vô-biên,
tánh-chất khác nhau, dày mỏng không đồng.
Do vô-minh này mà sinh ra các phiền-não sai khác (sở-tri-chướng) nhiều hơn số cát
sông Hằng. Cũng do vô-minh này mà sanh ra các phiền-não sai khác, như ngã-kiến,
ái-nhiễm v.v… (phiền-não-chướng).
Tóm lại, tất cả phiền-não (phiền-não chướng, sở-tri chướng) đều do vô-minh sanh-khởi,
hoặc trước hoặc sau vô-cùng sai khác.
(Ðoạn này đã nói “vô-minh sai khác không đồng”, tiếp theo đây sẽ nói “ngoại duyên
không phải một”).
Lại nữa, trong Phật-pháp nói: “Tất cả các pháp đều do nhơn-duyên sanh; nhơn-duyên
đầy-đủ mới được thành-tựu”.
Thí như chất lửa trong cây là “Chánh-nhơn” của lửa. Song, nếu không có “trợ
duyên” là người biết lấy lửa, và các phương-tiện như bùi-nhùi (bổi), công người
cọ xát v.v… thì lửa kia không thể tự phát-sanh ra được.
Cũng vậy, chúng-sanh tuy sẵn có tánh Phật (chơn-như) là cái “nhơn chánh” để thành
Phật; song nếu không có “ngoại duyên” là gặp các đức Phật, Bồ-tát và Thiện-tri-thức
v.v… dẫn-dắt chỉ dạy cho phương-pháp tu-hành, thì hành-giả cũng không thể tự mình
đoạn trừ phiền-não và tu chứng Niết-bàn được.
Trái lại, nếu chỉ có “ngoại duyên” mà không có chơn-như là cái “nhơn chánh” để thành
Phật, huân-tập bên trong, thì hành-giả cũng không thể tự mình chán khổ sanh-tử,
cầu vui rốt-ráo Niết-bàn được.
Bởi thế nên, phải có nội-nhơn và ngoại-duyên đều đầy đủ; nghĩa là bên trong nhờ
tánh Phật (chơn-như) làm “chánh nhơn” huân-tập; bên ngoài nhơ đức từ-bi và đại-nguyện
của Phật, Bồ-tát giúp hộ làm “trợ duyên” thì hành-giả mới chán khổ sanh-tử, tin
có cõi Niết-bàn và phát tâm tu-tập các pháp lành. Nhờ tu-tập các pháp lành
được thuần-thục, nên hành-giả mới gặp chư Phật, Bồ-tát thị-hiện, chỉ dạy những điều
lợi lạc. Lúc bấy giờ hành-giả mới tinh-tấn tu-hành, để đến đạo-quả Niết-bàn.
LƯỢC GIẢI
Tất cả chúng-sanh đều có tánh Phật (chơn-như) và đồng huân-tập vô-minh v.v… thì
phải đồng phát tâm, đồng tu và đồng chứng như nhau. Song, có sự vô cùng sai
khác, không đồng nhau như kẻ phát tâm tu-hành, người hủy-báng, kẻ đã thành Phật,
người còn trầm-luân v.v… là vì hai nguyên-nhơn sau đây:
1.
Vô-minh không đồng:
Mỗi chúng-sanh có rất nhiều lớp vô-minh: có thứ vô-minh thuộc về căn-bản, có thứ
vô-minh thuộc về chi-mạt; có thứ dày sâu, có thứ mỏng cạn, có thứ thô phù dễ trừ,
có thứ tế nhị khó đoạn. Do các thức vô-minh này sanh ra hằng hà sa số phiền-não.
Nhưng trong số phiền-não này, tóm lại có hai chướng: Phiền-não chướng và Sở-tri
chướng (cũng gọi là trần-sa-hoặc).
Vì đoạn trừ vô-minh có khó dễ, mau chậm khác nhau, nên chúng-sanh phát tâm, tu-hành
và chứng quả không đồng thời.
2.
Hoàn-cảnh không đồng:
Mỗi chúng-sanh đều có mỗi hoàn-cảnh khác nhau, hoàn-cảnh tức là các duyên chung
quanh.
Chứng được đạo quả vô-thượng Bồ-đề, phải có đủ cả nhơn và duyên. Nhơn là chơn-như
hay Phật-tánh, huân-tập bên trong; Duyên là những hoàn-cảnh giúp đỡ bên ngoài, như
Phật, Bồ-tát và Thiện-hữu-tri thức dạy bảo dẫn dắt v.v… Nếu chỉ có Nhơn mà
thiếu Duyên, hoặc có Duyên mà thiếu Nhơn, thì cũng không thành.
Thí như trong cây có sẵn chất lửa là “nhơn chánh”; song phải nhờ các “trợ duyên”
là hoàn-cảnh bên ngoài, như người biết lấy lửa và bổi v.v…, thì lửa ấy mới phát
sanh được. Nếu thiếu một (Nhơn hoặc Duyên) thì lửa không thể xuất hiện được.
Bởi hoàn-cảnh của mỗi chúng-sanh không đồng nhau, nên sự phát tâm tu hành và chứng
quả không thống nhất. Ðây là lý do thứ hai.
Phật-tánh có ba:
1.
Chánh-nhơn Phật tánh:
Chơn-như là
cái nhơn chánh để thành Phật; dụ như chất lửa sẵn có trong cây.
2.
Duyên-nhơn Phật tánh:
Phật, Bồ-tát, Thiện-hữu-tri thức và kinh sách v.v… là trợ-duyên để thành Phật: dụ
như người biết lấy lửa và bổi v.v…
3.
Liễu-nhơn Phật tánh:
Chánh-nhơn
và trợ-duyên đều đầy đủ, làm cho hành-giả phát hiện được (liễu ngộ) tánh Phật của
mình; dụ như lửa trong cây đã phát cháy.
CHÁNH VĂN
Nói về diệu-dụng chơn-như huân-tập.
Ðây là các trợ duyên bên ngoài của hành-giả; có rất nhiều thứ trợ duyên, nhưng tóm
lại có hai loại:
1.
Duyên sai-biệt:
Từ khi mới phát tâm cầu đạo, cho đến thành Phật, trong khoảng thời-gian ấy, hành-giả
hoàn-toàn nhờ chư Phật và Bồ-tát gia hộ cho trên đường tu-hành. Vì tâm đại-bi,
nên Phật và Bồ-tát hoặc hiện làm người thân-thuộc, như cha mẹ (để dạy bảo hành-giả)
hoặc hiện làm Thiện-hữu-tri thức (để nhắc-nhở), hoặc hiện làm người tôi tớ hầu-hạ
(để khuyên-lơn), hoặc hiện làm kẻ oan-gia (như Ðề-bà-đạt-đa v.v… để xúc-khích) hoặc
dùng Tứ-nhiếp-pháp (để cảm-hóa), cho đến làm không biết bao nhiêu công hạnh, để
huân-tập cho hành-giả, làm cho hành-giả hoặc nhớ nghĩ công-đức của các Ngài hoặc
thấy hình-tướng, hoặc nghe thuyết pháp, mà được lợi-ích và tăng-trưởng căn lành.
Các duyên sai-khác này, chia làm hai loại:
a)
Duyên gần, làm cho hành-giả mau đặng Bồ-đề (hiện-tiền chứng đạo).
b)
Duyên xa, làm cho hành-giả về sau mới đặng tế-độ (nhiều kiếp về sau mới đặng đạo).
Hai món duyên gần và xa này, lại chia làm hai loại nữa: Duyên làm cho hành-giả được
thọ đạo pháp, và Duyên làm cho hành-giả tăng-trưởng đạo hạnh.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói về Diệu-dụng chơn-như của chư Phật và Bồ-tát huân-tập cho chúng-sanh.
Chư Phật và Bồ-tát đã chứng được bản-thể chơn-như, nên tự-nhiên có diệu-dụng không
thể nghĩ bàn.
Do lòng Ðại-bi và Ðại-nguyện của chư Phật và Bồ-tát tùy theo trình-độ của chúng-sanh
phát tâm cầu đạo, nên từ diệu-dụng của chơn-như, ứng-hiện ra các thân hình v.v…
làm trợ-duyên bên ngoài, để giúp cho chúng-sanh đưọc thành đạo quả.
Nhưng các duyên này, có chia làm hai loại:
1.
Duyên sai-biệt:
Do trình-độ của chúng-sanh không đồng, sự phát-tâm của mỗi người mỗi khác, nên chư
Phật và Bồ-tát thị-hiện phải có sai-khác (Duyên sai-biệt).
2.
Duyên bình-đẳng
Do đồng-thể đại-bi, nên chư Phật và Bồ-tát phát nguyện độ sanh, cũng bình-đẳng làm
lợi-ích.
Ðoạn này nói về “Duyên sai-biệt”.
Chư Phật và Bồ-tát thị-hiện ra rất nhiều phương-tiện để độ sanh; nhưng không ngoài
năm việc như sau:
a)
Vì muốn dùng tư-ái, để dẫn-dắt hành-giả, nên hiện làm cha mẹ.
b)
Vì muốn dùng việc hầu-hạ, để gần-gũi hành-giả đặng khuyên lơn, nên hiện làm kẻ tôi
tớ.
c)
Vì muốn dùng việc cọng sự, để giúp cho hành-giả, nên hiện làm Thiện-hữu-tri thức.
d)
Vì muốn xúc-khích hành-giả trên đường tu-hành, nên hiện làm kẻ oan-gia. (như
Ðề-bà-đạt-đa).
e)
Vì muốn cảm-hóa người, nên dùng Tứ-nhiếp-Pháp.
Tất cả những phương-tiện này, đều do lòng từ-bi của Phật và Bồ-tát mà khởi hiện,
làm trợ-duyên để huân-tập cho hành-giả tăng-trưởng căn lành và được nhiều lợi ích.
Các duyên sai-biệt này chia làm hai loại:
1.
Duyên gần:
Nghĩa là hành-giả sớm được tế-độ. Như khi Phật còn tại thế, những chúng-sanh
được hóa độ.
2.
Duyên xa:
Nghĩa là hành-giả chậm được tế-độ. Như khi Phật Ðại-Thông-Trí-Thắng ra đời,
đức Thích-Ca làm đệ-tử, đến thời kỳ này mới được thành Phật.
Tất cả những phương-tiện này, đều giúp cho hành-giả được lãnh thọ đạo pháp và tăng-trưởng
đạo hạnh.
CHÁNH VĂN
2.
Duyên bình-đẳng:
Tất cả chư Phật và Bồ-tát đều phát-nguyện độ thoát tất cả chúng-sanh. Do sức
bi trí đồng-thể tự-nhiên huân-tập, nên các Ngài thường hằng tùy-thuận chúng-sanh
nào muốn thấy Phật, nghe Pháp, thì đều bình-đẳng hiện ra để hóa độ, không bỏ một
chúng-sanh nào. Bởi thế nên chúng-sanh khi ở trong thiền-định, đều được bình-đẳng
thấy Phật.
LƯỢC GIẢI
Chư Phật và Bồ-tát đã chứng đến chỗ đồng-thể (Phật và chúng-sanh đồng một bản-thể)
nên các Ngài tự thấy chúng-sanh còn đau khổ, thì mình còn đau khổ; chúng-sanh còn
trầm-luân, thì mình chưa giải-thoát.
Bởi thế nên từ chỗ đồng-thể ấy, các Ngài khởi Ðại-bi Ðại-trí và phát Ðại-nguyện.
Như Ngài Ðịa-Tạng Bồ-tát thề rằng: “Chúng-sanh độ tận, phương chứng Bồ-đề.
Ðịa-ngục vị không, thệ bất thành Phật”. Nghĩa là độ hết chúng-sanh mới chứng
Bồ-đề; nếu địa-ngục còn tội nhơn, thì tôi thề không thành Phật.
Ðức A-Nan thề rằng:
“Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập,
Như nhứt chúng-sanh vị thành Pật,
Chung bất ư thử thủ Nê-hoàn”.
Nghĩa là trong đời tội ác ô-trược, tôi thề xung-phong vào trước, để độ chúng-sanh;
nếu còn một chúng-sanh nào chưa thành Phật, thì tôi thề không chịu chứng quả Niết-bàn.
Do sự thúc-dục của đồng-thể bi trí này, nên các Ngài thường hằng tùy thuận tất cả
chúng-sanh, bình-đẳng hóa độ. Như Ngài Phổ-hiền Bồ-tát thường hiện thân cho
người thấy; đức Quán-thế-âm Bồ-tát thì ứng-hiện 32 thân v.v…
Nếu chúng-sanh nào tâm thanh-tịnh, thì được thấy chư Phật và Bồ-tát (chúng-sanh
tâm nhược tịnh, Bồ-đề ảnh hiện trung).
Sự ứng-hiện ấy rất tự-nhiên và bìnnh-đẳng; cũng như ao nước nào trong, thì tự-nhiên
có trăng bình-đẳng hiện vào.
Trên đã nói diệu-dụng chơn-như của chư Phật, Bồ-tát khi đã được hiển-lộ rồi; còn
chơn-như của chúng-sanh chưa hiển-lộ thì diệu-dụng thế nào? Hãy xem đoạn dưới
đây.
CHÁNH VĂN
Thể và Dụng của chơn-như huân-tập, lại chia làm hai loại:
1.
Chưa chứng nhập (tương-ưng) chơn-như.
Chúng phàm-phu, hàng Nhị-thừa và các vị Bồ-tát mới phát tâm (Tam-hiền), do ý và
ý-thức huân-tập mà phát tâm, và chỉ nương nơi sức tin của mình (tin tánh Phật ở
nơi mình) mà tu-hành; vì chưa chứng-nhập (tương-ưng) bản-thể chơn-như, nên chưa
được vô-phân-biệt-tâm (vô phân-biệt trí, tức là căn-bản trí); vì chưa đặng diệu-dụng
của chơn-như, nên sự tu-hành chưa được diệu-dụng tự-tại (sai-biệt trí hay hậu-đắc
trí).
2.
Ðã chứng nhập chơn-như.
Các vị Bồ-tát đã chứng Pháp thân (Thập-địa Bồ-tát), chỉ nương nơi Pháp-tánh (Pháp-lực)
tu-hành (thuận tánh khởi tu), tự-nhiên huân-tập vào chơn-như, nên diệt được vô-minh.
Các vị Bồ-tát này đã được vô-phân-biệt-tâm (căn-bản-trí), vì đã chứng nhập được
bản-thể chơn-như; và đã được Sai-biệt-trí (hậu-đắc-trí), vì đã được diệu-dụng của
chơn-như (dữ Phật trí dụng tương-ưng).
LƯỢC GIẢI
Thể chơn-như không hai, song vì còn ở trong vỏ chúng-sanh hay đã thoát ra ngoài,
mà diệu-dụng có rộng hẹp chẳng đồng; vì thế nên phân làm hai loại:
1.
Người chưa chứng-nhập được chơn-như:
Chơn-như còn bị các phiền-não nhiễm-ô làm triền phược (tại triền), chưa được hiển
lộ; như vàng còn ở trong khoáng.
Chúng phàm-phu, hàng Nhị-thừa và các vị Bồ-tát còn ở địa vị Tam-hiền, đều từ vọng-thức
phân-biệt mà phát tâm; do tự tin nơi mình có tánh Phật mà tu-hành. Vì chưa
chứng nhập “thể” và “dụng” của chơn-như, nghĩa là chơn-như còn tại triền-phược,
chưa được hiển lộ, nên các vị này chưa được căn-bản-trí (vô-phân-biệt-trí) và hậu-đắc-trí
(sai-biệt-trí).
2.
Người đã chứng-nhập được chơn-như:
Chơn-như đã được hiển lộ ra khỏi vỏ phiền-não nhiễm-ô triền-phược; như vàng đã ra
khỏi khoáng.
Các vị Bồ-tát từ Sơ-địa cho đến Thất-địa, mới nhập được bản-thể chơn-như; từ Bát-địa
đến Phật mới được Diệu-dụng của chơn-như. Các vị này, tùy thuận theo tánh
chơn-như mà tu-hành, nen diệt trừ được vô-minh. Vì đã chứng nhập Thể và Dụng
của chơn-như, nên các vị Bồ-tát này được hai món trí:
Căn-bản-trí (Vô-phân-biệt-trí) và Hậu-đắc-trí (Sai-biệt-trí).
Ðã nói nhiễm và tịnh huân-tập nhau rồi, dưới đây sẽ nói nhiễm và tịnh, cái nào có
cùng tận, cái nào không cùng tận.